Virus SARS-CoV-2 tấn công vào mô mỡ, người béo phì rơi vào thế nguy hiểm?
Từ đầu đại dịch COVID-19 đến nay, các nhà khoa học nhận thấy những người thừa cân hoặc béo phì có khả năng chuyển bệnh nặng và tử vong nhiều hơn sau khi nhiễm virus SARS-CoV-2.
Mặc dù những bệnh nhân như vậy thường có bệnh nền như tiểu đường và tim mạch làm tăng nguy cơ mắc COVID-19 thể nặng, nhưng các nhà khoa học ngày càng tin rằng tình trạng dễ bị tổn thương của họ có liên quan đến thể trạng béo phì.
Giờ đây, giới nghiên cứu đã phát hiện rằng virus SARS-CoV-2 lây nhiễm vào cả tế bào mỡ lẫn một số tế bào miễn dịch nhất định nằm trong lớp mỡ cơ thể, gây ra phản ứng phòng vệ có hại cho cơ thể.
Hầu hết người Mỹ trưởng thành bị thừa cân và có đến 42% bị béo phì. Ảnh: AFP
Tiến sĩ Philipp Scherer, nhà nghiên cứu về tế bào mỡ tại Trung tâm Y tế UT Southwestern (Mỹ) song không tham gia vào nghiên cứu trên, nhấn mạnh: “Thật vậy, virus có thể lây nhiễm trực tiếp vào các tế bào mỡ. Chúng không hề dừng lại ở mô mỡ mà sẽ ảnh hưởng đến những mô xung quanh nữa”.
Trong khi đó, Giáo sư về miễn dịch học Vishwa Deep Dixit tại Trường Y Yale cho biết: “Đó có thể là điểm yếu mà virus lợi dụng để trốn tránh các phản ứng miễn dịch bằng cách ẩn náu ở mô mỡ”.
Theo báo New York Times, nghiên cứu trên vừa được Giáo sư Catherine Blish tại Trung tâm Y tế Đại học Standford cùng các đồng nghiệp ở Đức và Thuỵ Sĩ công bố trên kho dữ liệu nghiên cứu trực tuyến hồi tháng 10.
Nếu kết quả trên được hội đồng chuyển gia công nhận, nó sẽ làm sáng tỏ không chỉ lý do vì sao những bệnh nhân thừa cân lại dễ nhiễm virus mà còn về việc một số người trẻ tuổi không có nguy cơ bệnh lý khác lại bị tổn thương nặng vì COVID-19.
Phát hiện này đặc biệt gây chú ý tại Mỹ – quốc gia có tỷ lệ béo phì cao nhất thế giới. Hầu hết người Mỹ trưởng thành bị thừa cân và có đến 42% bị béo phì.
Ở Mỹ, người da đen, người gốc Tây Ban Nha, người Mỹ bản địa và người Alaska bản địa có tỷ lệ béo phì cao hơn người da trắng và người Mỹ gốc Á. Họ cũng bị ảnh hưởng nặng hơn bởi đại dịch với tỷ lệ tử vong gần gấp đôi người Mỹ da trắng.
Mỡ trong cơ thể từng được coi là chất trơ – một dạng tích trữ. Tuy nhiên, các nhà khoa học hiện nay hiểu rõ rằng mô này cũng hoạt động sinh học, tạo ra các hormone và protein của hệ thống miễn dịch hoạt động trên các tế bào khác, thúc đẩy trạng thái dai dẳng của tình trạng viêm mức độ thấp ngay cả khi không bị nhiễm trùng.
Viêm là phản ứng của cơ thể đối với virus “xâm lược”, và đôi khi nó có thể mạnh mẽ đến mức gây hại hơn cả loại virus kích hoạt nó.
Mô mỡ được cấu tạo chủ yếu từ các tế bào mỡ hay còn gọi là tế bào mỡ. Nó cũng chứa tiền tế bào mỡ, trưởng thành thành tế bào mỡ và nhiều loại tế bào miễn dịch, bao gồm một loại gọi là đại thực bào mô mỡ.
Tiến sĩ Blish cùng các đồng nghiệp đã thực hiện hàng loạt thí nghiệm để xem liệu mô mỡ thu được từ bệnh nhân phẫu thuật béo phì có thể bị nhiễm SARS-CoV-2 hay không, đồng thời theo dõi phản ứng của các loại tế bào khác nhau.
Video đang HOT
Kết quả, các nhà khoa học phát hiện ra rằng bản thân các tế bào mỡ có thể bị nhiễm trùng nhưng không bị viêm nặng. Nhưng một số tế bào miễn dịch được gọi là đại thực bào cũng có thể bị nhiễm bệnh và chúng phát triển phản ứng viêm mạnh mẽ. Lạ hơn nữa, các tiền tế bào mỡ không bị nhiễm trùng nhưng góp phần tạo phản ứng viêm.
Nhóm nghiên cứu cũng tiến hành lấy mô mỡ từ thi thể các bệnh nhân ở châu Âu tử vong vì COVID-19 và tìm thấy virus SARS-CoV-2 trong mô mỡ xung quanh các cơ quan nội tạng.
Thế nhưng, ý tưởng cho rằng mô mỡ có thể đóng vai trò như một ổ chứa mầm bệnh không phải là mới. Mỡ cơ thể được từng được phát hiện chứa virus HIV và virus cúm.
Theo đó, SARS-CoV-2 dường như có thể trốn tránh các hệ thống miễn dịch của chất béo trong cơ thể, vốn đã bị hạn chế và không có khả năng chống lại mầm bệnh một cách hiệu quả. Và ở những người béo phì, họ có rất nhiều mỡ trong cơ thể.
Tiến sĩ David Kass, Giáo sư tim mạch tại Đại học Johns Hopkins, cho biết một người đàn ông có cân nặng lý tưởng là 77kg nhưng nếu nặng 113kg thì anh ta sẽ thừa ra lượng mỡ đáng kể mà virus có thể ẩn náu trong đó, tái tạo và kích hoạt phản ứng phá hủy hệ miễn dịch.
“Nếu bạn thực sự rất béo, mỡ chính là cơ quan riêng lẻ lớn nhất trong cơ thể bạn”, Tiến sĩ Kass nói. Theo ông, virus SARS-CoV-2 có thể tấn công vào mô mở và lưu trú tại đó. Mô mỡ sẽ trở thành một “hồ chứa” của virus gây COVID-19.
Ngoài ra, nhóm tác giả còn nghi ngờ lớp mỡ nhiễm virus có thể gây ra chứng “COVID-19 kéo dài” trong vài tuần hoặc vài tháng sau khi hồi phục COVID-19. Dữ liệu này cũng đề xuất việc sản xuất vaccine và điều trị COVID-19 cần chú ý đến cân nặng và tỷ lệ mỡ của người bệnh.
Tiến sĩ Barry Popkin, Giáo sư dinh dưỡng tại Đại học Bắc Carolina đánh giá bài báo này là một lời cảnh tỉnh khác cho ngành y tế để xem xét sâu hơn các vấn đề của những người thừa cân và béo phì.
Các nhà khoa học thế giới dự đoán thời điểm kết thúc đại dịch Covid-19
Các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra nhận định về kịch bản kết thúc đại dịch Covid-19, trong bối cảnh nhiều quốc gia đã dỡ bỏ các biện pháp phòng dịch và đẩy mạnh tiêm chủng vaccine.
Người dân đeo khẩu trang trên đường phố Singapore (Ảnh: Business Times).
Hãng tin Reuters đã tiến hành phỏng vấn hơn 10 chuyên gia hàng đầu về dịch bệnh và cho biết, khi làn sóng lây nhiễm do biến chủng Delta đang hạ nhiệt ở nhiều khu vực trên thế giới, các nhà khoa học vẫn đang xem xét khả năng dịch Covid-19 sẽ trở thành bệnh đặc hữu vào năm 2022.
Các nhà khoa học dự đoán rằng, những quốc gia đầu tiên thoát khỏi đại dịch sẽ là những nơi có sự kết hợp giữa tỷ lệ tiêm chủng cao và khả năng miễn dịch tự nhiên ở những người đã mắc Covid-19 và khỏi bệnh như ở Mỹ, Anh, Bồ Đào Nha và Ấn Độ. Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo rằng SARS-CoV-2 vẫn là một loại virus khó lường và đang tiếp tục đột biến khi lây lan qua các cộng đồng dân cư chưa được tiêm chủng.
Không ai có thể loại trừ hoàn toàn khả năng virus đột biến đến mức có thể né tránh được miễn dịch cộng đồng. Tuy nhiên, các nhà khoa học ngày càng tin tưởng rằng, vào năm tới, nhiều quốc gia sẽ bỏ lại những điều tồi tệ nhất của đại dịch Covid-19 ở phía sau.
"Chúng tôi cho rằng từ nay đến cuối năm 2022 là thời điểm mà chúng ta có thể kiểm soát được loại virus này, khi chúng ta có thể giảm thiểu đáng kể các ca bệnh nặng và tử vong", Maria Van Kerkhove, nhà dịch tễ học đứng đầu nhóm ứng phó với Covid-19 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nói.
Quan điểm của WHO dựa trên kết quả làm việc với các chuyên gia về dịch bệnh, những người đang dự báo diễn biến có thể xảy ra của đại dịch trong 18 tháng tới. WHO đặt mục tiêu 70% dân số thế giới được tiêm chủng vào cuối năm 2022.
"Nếu chúng ta đạt được mục tiêu đó, chúng ta sẽ ở trong một tình huống rất khác về mặt dịch tễ học", bà Van Kerkhove nói.
Tuy nhiên, nhà khoa học WHO lo lắng về việc các quốc gia sớm dỡ bỏ các biện pháp phòng ngừa Covid-19.
"Tôi ngạc nhiên khi thấy mọi người đi lại trên đường phố, như thể mọi thứ đã kết thúc", bà Van Kerkhove nói thêm.
Theo báo cáo của WHO vào ngày 26/10, từ tháng 8, các ca nhiễm và tử vong vì Covid-19 đã giảm xuống ở hầu hết khu vực trên thế giới.
Tuy vậy, châu Âu dường như là ngoại lệ, khi biến chủng Delta đang gây ra làn sóng dịch bệnh mới ở các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng thấp như Nga và Romania, cũng như những nơi đã dỡ bỏ yêu cầu đeo khẩu trang.
Bệnh viện điều trị bệnh nhân Covid-19 ở Nga (Ảnh: Reuters).
Biến chủng Delta cũng góp phần làm gia tăng số ca nhiễm ở các quốc gia như Singapore và Trung Quốc, những nơi có tỷ lệ tiêm chủng cao nhưng ít có khả năng miễn dịch tự nhiên do áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm ngặt.
"Quá trình chuyển đổi sẽ khác nhau ở từng nơi vì nó sẽ được thúc đẩy bởi miễn dịch trong nhóm dân số đã khỏi bệnh và tất nhiên, bởi việc phân phối vaccine, vốn thay đổi giữa các khu vực", Marc Lipsitch, nhà dịch tễ học tại Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan, cho biết.
Một số chuyên gia dự đoán, làn sóng lây nhiễm do biến chủng Delta tại Mỹ sẽ kết thúc trong tháng 11 này và có thể là đợt bùng phát Covid-19 lớn cuối cùng.
"Chúng tôi đang chuyển đổi từ giai đoạn đại dịch sang giai đoạn bệnh đặc hữu, nơi loại virus này trở thành mối đe dọa dai dẳng ở Mỹ", cựu Ủy viên Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ Scott Gottlieb cho biết.
Chris Murray, nhà dự báo dịch bệnh hàng đầu tại Đại học Washington, cũng dự báo làn sóng gia tăng lây nhiễm do biến chủng Delta ở Mỹ sẽ kết thúc vào tháng 11.
"Chúng ta sẽ chuyển sang mức tăng số ca mắc Covid-19 rất khiêm tốn vào mùa đông. Nếu không có biến chủng mới nghiêm trọng nào, Covid-19 sẽ thực sự kết thúc dần vào tháng 4 (năm 2022)", ông Murray nhận định.
Ngay cả khi các ca nhiễm đang tăng đột biến do các quốc gia dỡ bỏ các hạn chế chống dịch như ở Anh, vaccine dường như đã ngăn chặn số ca nhập viện. Nhà dịch tễ học Neil Ferguson tại Đại học Hoàng gia London nói rằng, đối với Anh, "tình trạng khẩn cấp của đại dịch đang ở phía sau chúng ta".
Trở thành bệnh đặc hữu?
Covid-19 được dự báo sẽ vẫn là nguyên nhân chính gây ra các ca bệnh và tử vong trong nhiều năm tới, giống như các bệnh đặc hữu khác như sốt rét.
"Đặc hữu không có nghĩa là lành tính", bà Van Kerkhove nói.
Một số chuyên gia nói rằng virus SARS-CoV-2 cuối cùng sẽ tồn tại giống như bệnh sởi, căn bệnh vẫn bùng phát ở những cộng đồng dân cư có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Những người khác cho rằng Covid-19 ngày càng trở thành một bệnh hô hấp theo mùa như cúm.
Nhà dịch tễ học Ferguson dự đoán số ca tử vong vì bệnh hô hấp do Covid-19 sẽ ở trên mức trung bình tại Anh trong vòng 2-5 năm tới, nhưng căn bệnh này sẽ không có khả năng gây sức ép với hệ thống y tế hoặc đòi hỏi thiết lập lại giãn cách xã hội.
"Đó sẽ là một sự tiến hóa dần dần. Chúng ta sẽ đối phó với nó như một loại virus dai dẳng hơn", ông Ferguson nói.
Trevor Bedford, nhà virus học tại Trung tâm Ung thư Fred Hutchinson, người đã theo dõi sự tiến hóa của SARS-CoV-2, nhận thấy một làn sóng dịch bệnh nhẹ hơn vào mùa đông ở Mỹ, sau đó là sự chuyển đổi sang bệnh đặc hữu vào năm 2022-2023. Ông dự đoán Mỹ sẽ có 50.000-100.000 ca tử vong do Covid-19 mỗi năm, lớn hơn con số ước tính 30.000 ca tử vong hàng năm do cúm.
Bedford cho biết, virus có thể sẽ tiếp tục đột biến, đòi hỏi phải tiêm phòng vaccine hàng năm để đối phó với các biến chủng mới nhất.
Nếu kịch bản Covid-19 bùng phát theo mùa xảy ra, trong đó virus SARS-CoV-2 lây lan song song với bệnh cúm, cả chuyên gia Gottlieb và Murray đều cho rằng điều đó sẽ có tác động đáng kể đến hệ thống chăm sóc sức khỏe.
"Đó sẽ là một vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách y tế, chẳng hạn cách đối phó với Covid-19 và dịch cúm bùng phát vào mùa đông", Murray cho biết.
Richard Hatchett, giám đốc điều hành của Liên minh Đổi mới sáng tạo chuẩn bị sẵn sàng Dịch bệnh, cho biết một số quốc gia được bảo vệ tốt bởi vaccine trong khi những quốc gia khác hầu như không có vaccine, do vậy thế giới vẫn dễ bị tổn thương.
Tiến sĩ Bruce Aylward, lãnh đạo cấp cao của WHO, hồi tháng 10 cho biết đại dịch Covid-19 sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2022 do các nước nghèo không nhận được số vaccine cần thiết.
Tiến sĩ Anthony Fauci, nhà dịch tễ học hàng đầu nước Mỹ, cho rằng thế giới có thể bắt đầu kiểm soát được đại dịch Covid-19 vào mùa xuân tới, trong khi Giám đốc điều hành của hãng dược Moderna và Pfizer nhận định đại dịch có thể kết thúc sau một năm nữa.
Mỹ bắt đầu tiêm chủng cho trẻ em 5-11 tuổi Mỹ ngày 3/11 đã bắt đầu chiến dịch tiêm chủng vaccine Covid-19 của Pfizer-BioNTech cho nhóm 5-11 tuổi, sau khi việc này được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) phê chuẩn. Tối ngày 2/11, Giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) Rochelle Walensky chính thức khuyến nghị tiêm vaccine Covid-19 của Pfizer-BioNTech...