Vĩnh Long hiện đại hóa hệ thống thủy lợi
Xác định tầm quan trọng của thủy lợi đối với phát triển nông nghiệp – thôn thôn, hằng năm từ các nguồn kinh phí khác nhau, tỉnh Vĩnh Long tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp, sửa chữa nhiều công trình thủy lợi.
Tỉnh còn lên kế hoạch đến năm 2050 hoàn thiện hệ thống thủy lợi theo hướng hiện đại, thông minh.
Cống Vũng Liêm – cống thủy lợi có quy mô lớn nhất, tiên tiến nhất ở tỉnh từ trước đến nay.
Hệ thống thủy lợi của tỉnh kết hợp với hệ thống giao thông bộ có nhiệm vụ dẫn nước tưới, tiêu, ngăn lũ – triều cường, xâm nhập mặn phục vụ chương trình cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu – nước dâng. Tính riêng giai đoạn năm 2001-2020, thủy lợi của Vĩnh Long được đầu tư trên 4.666 tỉ đồng từ nguồn kinh phí Trung ương hỗ trợ, ngân sách tỉnh và vốn nhân dân đóng góp với gần 13.976 công trình được xây dựng mới, sửa chữa, nâng cấp.
Đến cuối năm 2020, tỉnh Vĩnh Long có hệ thống thủy lợi rất lớn với 405 tuyến đê bao (dài 3.642km), 14.638m kè chống sạt lở bờ sông được xây dựng, hơn 6.008 cống, đập, 19 tram bơm điên và gần 4.400 tuyến sông, kinh, rạch tự nhiên các loại (dài hơn 5.326km) được nạo vét, cải tạo kết hợp sử dụng làm công trình thủy lợi. Có 94,24% diện tích đất sản xuất nông nghiệp được khép kín thủy lợi (tương đương 112.855ha) đảm bảo tưới, tiêu tự chảy trong điều kiện thời tiết thủy văn bình thường. Nhiều mô hình tưới tiết kiệm nước đã và đang chuyển giao áp dụng vào thực tế sản xuất trên lúa (khoảng 200ha) và 9.639,5ha cây trồng cạn (chiếm 10,44% tổng số diện tích cây trồng cạn toàn tỉnh).
Tuy nhiên theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hệ thống thủy lợi đã được đầu tư chỉ mới đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp đơn giản, chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Hệ thống kinh, đê bao mau bị bồi lắng, xuống cấp tốn nhiều kinh phí nạo vét, nâng cấp (mỗi năm có từ 200-300km cần phải nạo vét, nâng cấp). Hệ thống thủy lợi ứng phó với hạn mặn chưa tốt: Khả năng trữ nước còn hạn chế, hiện tại chỉ trữ được trong hệ thống kênh cấp 3 (kênh sau cống, đập), còn nhiều kênh cấp 2, cấp 1 còn thông, chưa trữ nước được. Một số trạm bơm đã được xây dựng hiệu quả sử dụng thấp. Ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới trong phát triển, vận hành khai thác hạ tầng thủy lợi còn hạn chế. Bên cạnh đó, bộ máy tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi của tỉnh chưa theo quy định của Luật Thủy lợi nên công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi còn nhiều bất cập…
Từ những tồn tại của hệ thống thủy lợi hiện tại, ngày 8-1-2021, UBND tỉnh ký Quyết định ban hành Kế hoạch “Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn năm 2021-2050″.
Video đang HOT
Theo kế hoạch, tỉnh Vĩnh Long phấn đấu đến năm 2030: Phát triển hệ thống thủy lợi đồng bộ, từng bước hiện đại, thông minh, bảo đảm chủ động đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp đa dạng, bền vững và phục vụ dân sinh trong điều kiện nguồn nước không xuất hiện tình trạng cực đoan. Đến năm 2050: Hoàn thiện hệ thống thủy lợi theo hướng hiện đại, thông minh bảo đảm chủ động phục vụ chuyển đổi, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và dân sinh, từng bước tự động hóa trong vận hành, có kết nối với phát triển của hệ thống thủy lợi, giao thông trong khu vực để chủ động phục vụ phòng, chống thiên tai, thích ứng và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Giải pháp trước mắt là từ nay đến năm 2025, tỉnh xây dựng đề án sắp xếp tổ chức, bộ máy quản lý, khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh. Trong đó sẽ thành lập các doanh nghiệp, các tổ chức thủy lợi cơ sở để quản lý, khai thác các công trình thủy lợi theo quy định của pháp luật về thủy lợi.
Bước kế tiếp là tập trung đầu tư hoàn thiện hạ tầng thủy lợi theo hướng kết hợp đồng bộ với hạ tầng kinh tế khác. Lĩnh vực và công trình, dự án mà tỉnh Vĩnh Long ưu tiên đầu tư là: Các dự án, công trình thủy lợi tạo động lực cho phát triển nông nghiệp – nông thôn như phát triển cánh đồng lớn trồng lúa, phát triển rau màu, cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, các dự án cho xây dựng nông thôn mới và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Giai đoạn năm 2021-2050, tỉnh dự tính cần khoảng 66.322 tỉ đồng để đầu tư hiện đại hóa thủy lợi. Nhiều công trình/dự án thủy lợi tỉnh sẽ dự kiến thực hiện, như: nâng cấp mở rộng các kinh trục cấp nước, tiêu nước, thoát lũ nối sông Tiền – sông Hậu ở vùng Bắc quốc lộ 1A như: Xẻo Mát – Cái Vồn, Xã Tàu – Sóc Tro), nạo vét hệ thống kinh cấp I, cấp II; nạo vét, cải tạo, nâng cấp mở rộng các kinh trục ở vùng Bắc và Nam Măng Thít (gồm: Cái Cá – Mây Tức, La Ghì – Trà Côn, Trà Ngoa, Bưng Trường – Ngãi Chánh, Cái Nhum, Kinh Xáng, Sóc Tro, sông Ba Kè…).
Về công trình đê bao: sẽ hoàn chỉnh đê bao bờ Nam sông Măng Thít, nâng cấp các tuyến đê ven sông Cổ Chiên, sông Hậu và nâng cấp hệ thống đê/bờ bao kiểm soát lũ theo quy mô nhỏ đến hệ thống kinh cấp II…
Về công trình cống, sẽ đầu tư hệ thống cống lớn ở các vàm sông nối với sông Măng Thít, sông Cổ Chiên, sông Hậu (mặn 4g/l đến đâu sẽ làm cống đến đó). Từng bước đầu tư các công trình kè chống sạt lở, các công trình chống ngập bảo vệ dân cư ở TP Vĩnh Long, thị xã Bình Minh và các đô thị khác, và hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng, các tiểu khu thủy lợi nhằm chủ động cấp nước, tiêu nước.
Tỉnh còn chú trọng thực hiện HĐH công tác quản lý, vận hành công trình, như: đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý, khai thác công trình thủy lợi từ cấp tỉnh đến tận cơ sở. Xây dựng kế hoạch sử dụng nước, giám sát, dự báo chất lượng nước trong các hệ thống công trình thủy lợi. Hiện đại hóa hệ thống quan trắc, lắp đặt hệ thống quan trắc khí tượng, thủy văn chuyên dùng phục vụ quản lý, khai thác và vận hành công trình… Ngoài ra còn xây dựng hệ thống giám sát vận hành công trình, từng bước tiến tới tự động hóa trong vận hành công trình, hệ thống.
Theo TS Văn Hữu Huệ, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhu cầu triển khai thực hiện kế hoạch HĐH hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh là rất lớn, trong khi nguồn lực của địa phương còn hạn chế. Vì vậy, tỉnh đề nghị Trung ương hỗ trợ khoảng 65% tổng vốn thực hiện kế hoạch (tương đương khoảng 46.000 tỉ đồng) để thực hiện các công trình/dự án thủy lợi lớn đã cân đối nguồn hỗ trợ của Trung ương giúp tỉnh hoàn thiện hệ thống thủy lợi theo kế hoạch đã định.
Bảo vệ nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp
Những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp, nguồn nước ngầm nhiều nơi bị suy giảm đã tác động không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp.
Công trình thủy lợi nội đồng trên địa bàn H.Cẩm Mỹ. Ảnh:B.Mai
Nhưng nhờ chủ động các phương án: tích nước ở các hồ chứa; đầu tư và nâng cấp hệ thống thủy lợi, kênh mương nội đồng; khoanh vùng hạn chế khai thác nước ngầm; điều tiết nước tưới và mùa vụ; ứng dụng công nghệ tưới tự động tiết kiệm vào sản xuất nông nghiệp nên nhiều địa phương không còn "khát nước".
* Chủ động nguồn nước cho sản xuất
Xã Sông Ray là vựa lúa lớn nhất ở H.Cẩm Mỹ. Những năm trước, do nguồn nước tưới không đủ, mỗi năm người dân chỉ trồng được 1 vụ lúa hoặc 1 vụ lúa và 1 vụ hoa màu. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, cánh đồng lúa ở xã Sông Ray xanh tốt quanh năm. Nhiều gia đình bỏ nghề đã quay lại trồng lúa, diện tích đất lúa được duy trì ổn định khoảng 300ha.
Bà Bùi Thị Liên, Phó chủ tịch UBND xã Sông Ray cho biết, vài năm trở lại đây không còn tình trạng người dân phải trắng đêm bù nước cứu lúa. Xã Sông Ray hình thành mô hình sản xuất lúa sạch đạt năng suất bình quân 8-9 tạ/sào. Điều này có được là nhờ hệ thống thủy lợi dẫn trực tiếp nước từ hồ, đập về tận cánh đồng; các ngành chức năng thực hiện điều tiết nước và đưa ra khuyến cáo về thời gian xuống giống phù hợp để hạn chế tác động của thời tiết đến mùa vụ và sâu bệnh. "Xã Sông Ray gần như không bị thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp. Vào cao điểm mùa khô, khoảng tháng 4-5, một số ít diện tích cây lâu năm thiếu nước từ hệ thống thủy lợi, nhưng bà con vẫn đảm bảo được nguồn nước tưới từ giếng khoan" - bà Liên chia sẻ.
Xã Sông Trầu (H.Trảng Bom) những năm qua không chỉ xảy ra tình trạng thiếu nước sạch sinh hoạt mà nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp cũng không đủ do nguồn nước ngầm suy giảm. Để duy trì sản xuất nông nghiệp, nhiều nông dân đã chuyển đổi cây trồng kết hợp đầu tư hệ thống tưới phun sương tự động.
Ông Dương A Nhì (ấp 3, xã Sông Trầu) cho biết, khoảng 3 năm trở lại đây ông đã áp dụng hệ thống tưới "3 trong 1" cho vườn bưởi, mang lại hiệu quả rõ rệt. Không chỉ tiết kiệm lượng nước tưới, phân bón, thuốc trừ sâu, giảm nhân công và tiền điện, mà hệ thống này còn giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt hơn nhờ lượng phân, nước được tưới đều. Mỗi lần tưới, ông Nhì chỉ cần ấn nút, điều chỉnh van, khoảng 30 phút là tưới xong cả vườn hơn 5ha.
Hiện mô hình tưới tự động nhỏ giọt, phun sương đang được nhiều nông dân toàn tỉnh áp dụng. Không chỉ tiết kiệm nguồn nước, mô hình này giảm nhân công, giảm chi phí đầu tư và có lợi hơn cho cây trồng.
* Tăng sử dụng nước mặt, hạn chế khai thác nước ngầm
Để đảm bảo nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt, những năm gần đây, tỉnh có nhiều chủ trương đó là: duy tu, sửa chữa và đầu tư thêm các công trình tích nước, dẫn nước, thoát nước và ngăn mặn; chỉ đạo ngành Nông nghiệp, các địa phương nghiên cứu thay đổi cơ cấu cây trồng, lịch gieo trồng phù hợp từng vùng; hỗ trợ kinh phí cho các địa phương làm thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và hỗ trợ kinh phí cho nông dân vùng sản xuất tập trung đầu tư công nghệ tưới tiết kiệm nước.
Nông dân H.Trảng Bom sử dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước. Ảnh:B.Mai
Ông Lê Xuân Toàn, Phó giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Đồng Nai cho biết, trong năm 2020 công ty hoàn thành và đưa vào khai thác công trình thủy lợi hồ Gia Măng (H.Xuân Lộc) với dung tích khoảng 4 triệu m 3 nước, hiện tích trữ được 90%. Hiện công ty đang đầu tư công trình thủy lợi phục vụ tưới vùng mía Định Quán. Tính đến cuối năm nay, đơn vị đang quản lý 24 công trình thủy lợi, 10 hồ chứa, 10 đập dâng, 2 trạm bơm điện, 2 công trình ngăn mặn. Các công trình này đảm bảo nguồn nước tưới, thoát nước và ngăn mặn cho khoảng 32,8 ngàn ha, trong đó tưới 24,3 ngàn ha, tiêu nước 2,5 ngàn ha và ngăn mặn diện tích gần 6 ngàn ha. Hiện tại, mực nước ở các hồ chứa phục vụ cho sản xuất nông nghiệp khá ổn định, chưa ghi nhận giảm so với năm 2019.
Theo ông Toàn, các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nhờ đồng bộ các giải pháp như: tích trữ nước, bê tông hóa kênh mương nội đồng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và mùa vụ, ứng dụng tưới tiết kiệm nên tình trạng khô hạn do thiếu nước giảm đáng kể. Ông Toàn cho rằng, ngoài yếu tố thời tiết, việc vi phạm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi, nông dân tự ý chuyển đổi mùa vụ hoặc không xuống giống đồng loạt cũng ảnh hưởng đến đảm bảo nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp.
Theo Sở TN-MT, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên nước, an ninh nguồn nước, tỉnh đã ban hành danh mục vùng, khu vực hạn chế khai thác nước ngầm nhằm hạn chế suy giảm mực nước và dự trữ nguồn nước dưới đất, chủ trương ưu tiên khai thác, sử dụng nguồn nước mặt; thực hiện đánh giá chất lượng nguồn nước sông, suối. Tuy nhiên, việc khai thác nước ngầm vẫn xảy ra. Mới đây, Sở TN-MT đã hoàn thành dự án Lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước trên quy mô toàn tỉnh nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Sau đó, Sở cùng với các địa phương thực hiện cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước tại các khu vực cần bảo vệ, khu vực có nguy cơ thiếu nước.
Kênh thủy lợi 90 tỉ đồng, 4 năm vẫn chưa xong 1.750 hộ dân thiếu nước tưới tiêu, sinh hoạt... gây thiệt hại nhiều tỉ đồng. Đoàn công tác của HĐND tỉnh Đắk Nông do ông Y Quang B'Krông, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Nông, làm trưởng đoàn vừa có cuộc khảo sát các hạng mục công trình thủy lợi suối Đá xã Quảng Hòa (Đắk G'Long). Công trình này bốn năm chưa...