Vinashin sang trang mới và trách nhiệm Quốc hội
Thêm một lần tái cơ cấu cũng có nghĩa là mở ra hy vọng về trang mới của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin).
Tuy nhiên, sự thành công của chủ trương này, theo ý kiến một số nhà kinh tế thì không hẳn chỉ phụ thuộc vào quá trình xử lý món nợ khổng lồ trong điều kiện ngân sách đang vô cùng khó khăn hiện nay.
Mà gốc của vấn đề là cải cách thể chế để có một hành lang pháp lý minh bạch cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khóa 12 Hà Văn Hiền cho đến tận hôm nay vẫn day dứt một câu hỏi, rằng tại sao Luật Đầu tư công (bao gồm cả quy định về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh) vẫn chưa thể ra đời, trong khi được chuẩn bị từ Quốc hội khóa 11.
“Đầu Quốc hội khóa 12, tôi vừa chân ướt chân ráo về làm Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đã chủ trì ngay cuộc họp thẩm tra dự án luật đó”, ông Hiền nhớ lại.
Sự khó hiểu này, đáng buồn không phải chỉ là của riêng ông Hiền.
Trở lại cuộc giám sát tối cao của Quốc hội với việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vào cuối năm 2009, chung nhận định là đang thiếu một hành lang pháp lý minh bạch cho khối doanh nghiệp này, hầu hết các ý kiến tại đây đều thống nhất cần có luật để quản vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh (khi đó khoảng 30 tỷ USD).
Để rồi cuối kỳ họp đó, trong một nghị quyết hiếm hoi được 100% phiếu thuận về việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ “trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật liên quan và sớm trình để ban hành Luật Sử dụng vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào kinh doanh”.
Tròn 4 năm trôi qua, sau nhiều lần kiên nhẫn đề nghị đi đề nghị lại của không ít vị đại biểu, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh cũng có tên trong danh sách các dự án luật được cho ý kiến lần đầu. Tức là, sớm nhất cũng phải đến kỳ họp cuối năm 2013 mới được trình Quốc hội và giữa năm 2014 mới được xem xét thông qua, đầu 2015 mới có thể có hiệu lực.
Thế nhưng, tại phiên họp thứ 21 đang diễn ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại thêm một lần nhận được đề nghị lùi dự án luật nói trên, từ Chính phủ. Lý do được đưa ra là cần tiếp tục nghiên cứu, xác định cụ thể tên gọi, phạm vi điều chỉnh và nội dung của dự án luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, không chồng lấn với các luật chuyên ngành khác.
Video đang HOT
Như vậy, kỳ họp thứ bảy vào giữa năm 2014 dự án luật này mới có thể được cho ý kiến lần đầu tại Quốc hội. Còn có được thông qua hay không và thông qua vào thời gian nào là điều chưa thể chắc chắn.
Mà đây, nói như Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Phúc, cũng chỉ là một trong nhiều dự án luật mà nếu Quốc hội không tập trung thảo luận thì “đừng có bàn đến tái cơ cấu nền kinh tế”.
Bên cạnh Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, thì hàng loạt các dự án luật khác cần phải làm mới hoặc sửa đổi như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Phá sản, Luật Đầu tư công… cũng đã nằm trong sự sốt ruột cao độ của các phiên thảo luận về chương trình xây dựng luật hàng năm và toàn khóa của Quốc hội.
Nhưng, cũng phải đến tận kỳ họp cuối năm 2013, Luật Đầu tư công mới được trình lần đầu và Luật Phá sản (sửa đổi) cũng mới được xem xét cho ý kiến.
Vậy, có lẽ cũng không cần mất nhiều thời gian hơn để đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, vì sao quá trình tái cơ cấu nền kinh tế lại ì ạch như vậy.
Và, cũng không có gì ngạc nhiên khi câu chuyện thời sự về tiếp tục tái cơ cấu Vinashin lại khiến một số chuyên gia đã và đang là cộng tác viên thân thiết của Ủy ban Kinh tế Quốc hội nhớ đến quan điểm của hai vị Lê Đăng Doanh và Võ Đại Lược về cải cách thể chế ở Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân vào tháng 4/2013.
Tại đây, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính trị thế giới, cựu thành viên ban nghiên cứu của Thủ tướng, chuyên gia Võ Đại Lược đã nhìn nhận, căn nguyên cơ bản nhất của sự ì ạch trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế chính là “tồn kho thể chế”, khi có quá nhiều thể chế lạc hậu không được sửa.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cũng chỉ ra rằng, do không có luật về đầu tư công và cải cách doanh nghiệp nhà nước nên hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước rất thấp, cổ phần hóa rất chậm và có rất nhiều tiêu cực, những vụ việc được phát hiện như Vinashin, Vinalines… đã gây ra những tổn thất rất to lớn.
Tại kỳ họp Quốc hội thứ 5 vừa qua, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, đại biểu Lê Như Tiến thêm một lần chất vấn Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về Vinashin.
Ông Tiến nói rằng, Vinashin, Vinalines vẫn là gam mầu tối, để lại dư âm trầm buồn và hình ảnh méo mó về hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các doanh nghiệp này đã bàn giao lại cho nền kinh tế đất nước món nợ xấu khổng lồ lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la.
Và trước khi hỏi về kết quả, đại biểu Tiến cũng không quên nhắc đến việc tại phiên chất vấn của các kỳ họp trước, Chính phủ đã bày tỏ quyết tâm cao trong việc tái cơ cấu Vinashin, Vinalines nói riêng và các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước nói chung.
Thế nhưng, không ít ý kiến cho rằng, đâu chỉ có Chính phủ mới có trách nhiệm trong gam màu tối của doanh nghiệp nhà nước, rộng hơn là trong đầu tư công.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh từng nói thẳng, không chỉ Chính phủ mà Quốc hội cũng có trách nhiệm trước tình trạng đầu tư công đã bị lạm dụng, gây lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng, kéo dài, trở thành công cụ cho tư duy nhiệm kỳ bất chính kéo dài lâu như vậy.
Và quan điểm cần tiến hành mạnh mẽ việc cải cách thể chế, trước hết để phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế cũng không còn là của riêng các nhà khoa học, kinh tế Việt Nam mà bao gồm cả các chuyên gia nước ngoài.
Nhưng cải cách thể chế, đương nhiên không chỉ nằm ở ý chí và quyết tâm của 498 vị đại biểu ở cơ quan lập pháp.
Đó, lại là một lý do để dấu hỏi chấm xuất hiện sau thông điệp Vinashin sang trang mới?
Theo VNN
Nhà nước không cấm hôn nhân đồng tính, mang thai hộ
Chiều 10/9, cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình, Thường vụ Quốc hội đồng tình với quy định "Nhà nước không cấmhôn nhân đồng tính ".
Đa số thành viên Hội đồng thẩm định dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình nhất trí bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính (khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), thay vào đó là những quy định có nội dung liên quan giải quyết những vấn đề phát sinh từ việc sống chung giữa người cùng giới, như tài sản, con cái (nếu có).
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Văn Hiện tán thành "bỏ quy định cấm kết hôn đồng tính". Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính, nhưng cũng không cấm. Ông Hiện lưu ý vấn đề này cần phải xử lý một cách thực tế và có lộ trình cụ thể.
Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với quy định như dự thảo Luật. Vì hiện nay, quan niệm và nhận thức của xã hội về vấn đề đồng tính đã thay đổi so với thời điểm thông qua Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Do vậy, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Tưởng Duy Lợi cũng hoàn toàn ủng hộ việc bỏ quy định cấm hôn nhân đồng tính, vì đây là quyền con người.
Các ý kiến cho rằng ủng hộ việc bỏ quy định cấm hôn nhân đồng tính vì đây là quyền con người.
Ông Lượng cho rằng, quy định "không cấm hôn nhân đồng tính" là phù hợp nhận thức chung của xã hội, khi điều kiện thuận lợi, pháp luật sẽ cho đăng ký kết hôn.
"Thực ra, nhóm đối tượng này cũng chỉ là sự nhầm lẫn của tạo hóa, khiến họ khác biệt với số đông", ông Lượng nói.
Trong khi đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý cho rằng, trước đây, cấm hôn nhân đồng tính. Hiện nay, chúng ta không cấm, nhưng lại không công nhận.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, đối với nhà nước pháp quyền, một khi luật không cấm, người dân được làm. Vì vậy, luật phải rõ ràng, không nên dừng ở mức không cấm mà phải công nhận.
"Bởi nếu chỉ nói không cấm thì hậu quả pháp lý của việc này ra sao? Chúng ta cần mạnh dạn vì quyền con người", ông Phan Trung Lý nói
Ở góc độ quyền con người, việc bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính thể hiện tính nhân văn, góp phần giảm bớt sự kỳ thị đối với nhóm người này và để có cơ sở giải quyết hậu quả về mặt pháp lý của tình trạng chung sống như vợ chồng giữa một bộ phận người cùng giới tính đang diễn ra trong thực tế.
Dự thảo Luật cũng đề cập nghiêm cấm việc mang thai hộ vì mục đích thương mại và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với các điều kiện ràng buộc cụ thể, quy định quyền, nghĩa vụ các bên có liên quan và việc giải quyết tranh chấp.
Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhằm đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của nhiều cặp vợ chồng không có khả năng sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, góp phần bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nên nghiêm cấm việc mang thai hộ với bất kỳ mục đích nào vì đây là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, rất dễ bị lợi dụng và chưa thực sự phù hợp với văn hóa Việt Nam.
Qua thảo luận, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Điều này thể hiện tính nhân văn trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, tạo cơ hội cho một số cặp vợ chồng được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ chính đáng.
Theo Đất Việt
Kinh tế năm 2013: Cơ hội tái cơ cấu doanh nghiệp "Năm 2013 sẽ là năm hồi phục của nền kinh tế Việt Nam, nếu thực hiện nhất quán, đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp đề ra trong nghị quyết 01 và 02 của chính phủ" - TS. Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Quốc hội nhận định. TS. Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế...