Việt Nam sẽ xuất khẩu 30.000 chiếc ô tô vào năm 2030
Theo quy hoạch ngành công nghiệp ô tô, dự kiến đến năm 2020 Việt Nam sẽ có hơn 227.000 chiếc, đến 2025 hơn 466.000 chiếc và đến năm 2030 có gần 863.000 chiếc.
Đến năm 2030 Việt Nam có gần 863.000 chiếc ô tô (Ảnh minh họa)
Đó là những con số nằm trong quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp ô tô là trở thành ngành công nghiệp quan trọng của đất nước, đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường nội địa về các loại xe tải, xe khách thông dụng và một số loại xe chuyên dụng.
Về dự kiến tỷ trọng số lượng xe sản xuất, lắp ráp trong nước so với tổng nhu cầu nội địa: Xe ô tô đến 9 chỗ ngồi đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 60%; đến năm 2025 chiếm 65% và đến năm 2030 chiếm 70%. Xe ô tô trên 10 chỗ ngồi đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 90% và đến 2030 chiếm 92%. Xe ô tô tải đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 78% và đến năm 2030 chiếm 80%. Xe chuyên dùng đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 15% và đến năm 2030 chiếm 20%.
Sản lượng xe dự kiến đến năm 2020 đạt hơn 227.000 chiếc; đến năm 2025 là hơn 466.000 chiếc và đến năm 2030 là gần 863.000 chiếc (trong đó ô tô dưới 9 chỗ ngồi hơn 452.000 chiếc, ô tô tải hơn 356.000 chiếc).
Xuất khẩu xe nguyên chiếc và phụ tùng, dự kiến đến 2020 xuất khẩu 20.000 chiếc và đến 2030 xuất khẩu 30.000 chiếc; xuất khẩu linh kiện, phụ tùng đến năm 2020 đạt 4 tỷ USD, đến năm 2030 đạt 6 tỷ USD.
Về công nghiệp hỗ trợ, giai đoạn đến năm 2020, cơ bản hình thành ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất ô tô. Phấn đấu đáp ứng 30-40% (về giá trị) nhu cầu linh kiện, phụ tùng của sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước, từng bước tham gia hệ thống cung ứng các linh kiện, phụ tùng trong chuỗi giá trị toàn cầu của công nghiệp ô tô thế giới.
Đến giai đoạn 2021-2025, tiếp tục phát triển công nghiệp hỗ trợ, đảm bảo cung ứng 40-45% và đến giai đoạn 2026 – 2030 đảm bảo cung ứng trên 50% (về giá trị) nhu cầu linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước; phấn đấu trở thành nơi cung cấp quan trọng một số loại kinh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp ô tô khu vực và thế giới.
Về giải pháp chính sách, đề án định hướng áp dụng chính sách ưu đãi cao nhất đối với các dự án sản xuất xe thân thiện với môi trường. Các doanh nghiệp trong nước tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu trong sản xuất, xuất khẩu linh kiện, phụ tùng và xe nguyên chiếc được áp dụng ổn định chính sách tín dụng xuất khẩu; được hưởng các chế độ ưu đãi của Chương trình Xúc tiến Thương mại quốc gia, ưu đãi theo Chương trình cơ khí trọng điểm; dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với lãi suất thấp.
Video đang HOT
Đối với khu vực tiêu dùng, đề án yêu cầu rà soát, điều chỉnh chính sách thuế, phí theo hướng tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp ô tô để đáp ứng nhu cầu sử dụng ô tô của nền kinh tế và của người dân, đồng bộ với phát triển của hạ tầng giao thông và yêu cầu bảo vệ môi trường.
Theo đó sẽ áp dụng mức thuế thấp nhất đối với các loại xe khách tầm trung và tầm ngắn từ 16 đến dưới 24 chỗ; áp dụng mức thuế suất ưu đãi đối với các loại xe thân thiện với môi trường; áp dụng mức thuế suất cao nhất đối với các loại xe chở người đến 9 chỗ, có dung tích động cơ trên 3.0 lít đồng thời ban hành phí môi trường cao đối với xe có dung tích động cơ trên 3.0 lít.
Đề án yêu cầu thực hiện nhất quán hệ thống chính sách đã và sẽ ban hành trong thời gian tối thiểu 10 năm, phù hợp với xu thế hội nhập, tạo sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư, nhà sản xuất.
Theo Infonet
Những chiếc xe sang nhanh chóng bị thờ ơ tại Việt Nam
Có những chiếc làm mưa làm gió lúc mới ra mắt nhưng mất phong độ theo thời gian do chất lượng.
BMW 3-series (E46)
BMW 3-series (E46)
Phổ biến tại thị trường Việt Nam là BMW 318i sử dụng động cơ 4 xy-lanh và BMW 325i sử dụng động cơ 6 xy-lanh. Những dòng xe này được lắp ráp trong nước phổ biến với các model từ 2001 - 2005 do BMW liên doanh với Ôtô Hòa Bình (VMC). Chất lượng của những chiếc xe này không mấy khác biệt so với dòng xe toàn cầu, tuy nhiên, do yếu tố giá cả nên một số option có thể bị cắt bớt nhưng không ảnh hưởng đến tính năng vận hành của xe.
Đến nay, những chiếc xe này đã gần chục năm tuổi nhưng hình dáng bên ngoài không hề lỗi mốt, vận hành lại rất tốt. Giá cả dao động từ 340 - 470 triệu VND tùy năm sản xuất và tình trạng xe. Riêng dòng BMW 325i có giá đắt hơn BMW 318i khi mua mới nhưng lại tỏ ra đuối hơn khi cũ và có giá bán "mềm" hơn cho dù cùng năm sản xuất.
Ai cũng biết những chiếc xe này hiện tại đã có tuổi nhưng chạy thì vẫn cho cảm giác rất tốt, hơn hẳn những chiếc xe phổ thông châu Á. Tuy nhiên, ngoài vấn đề tiêu thụ nhiên liệu, chi phí thay thế phụ tùng chính hãng khiến cho người tiêu dùng ái ngại. Nếu chọn loại phụ tùng aftermaket thường có xuất xứ Trung Quốc, Đài Loan thì lại mang tâm lý bất an lo lắng. Đây là rào cản khiến cho phần đông những người sử dụng xe cũ cảnh giác với dòng BMW E46 này.
Mercedes C-Class W203
Mercedes C-Class W203
Là dòng xe lắp ráp trong nước, các model từ 2001 đến đầu 2007 sở hữu các loại động cơ 4 máy hoặc 6 máy tùy loại và ngoại hình được đánh giá là đậm chất Mercedes nhất với kiểu đèn tròn củ lạc. Chất lượng ban đầu cùng cảm giác lái của dòng này không có gì để bàn cãi vì quá tốt, và đến nay, khi chiếc xe đã có tuổi thì chất lượng tổng quát về thân vỏ, khung gầm, hệ thống lái vẫn tốt nếu như được bảo trì thường xuyên.
Vấn đề của chiếc xe, dù không phổ biến nhưng cũng gặp nhiều bệnh liên quan đến hệ thống điện, các cảm biến, và chi phí thay phụ tùng thì rất cao cùng thời gian phải chờ đợi. Giá trị giao dịch của dòng xe Mercerdes W203 tùy dung tích, năm sản xuất, nhưng tựu chung trên thị trường rất "mềm" so với đẳng cấp của nó.
Đối tượng mua sử dụng dòng xe này thường lọt vào hai dạng, một là chưa biết hoặc hai là biết rất nhiều về xe hơi. Đối với những người am hiểu và biết tự tìm kiếm nguồn phụ tùng ngoài Việt Nam thì những chiếc xe này thật sự là xe sang trong tầm tay. Nhưng đối với những người lơ mơ thì có lúc sẽ phải tái mặt khi nghe báo giá thay phụ tùng và họ khó có thể chấp nhận thực tế phũ phàng những món đồ nho nhỏ nhưng lên tới vài ba chục triệu so với giá trị chiếc xe chỉ tầm trên dưới 400 - 600 triệu VND.
Autocar Vietnam đã từng ghi nhận nhiều trường hợp lần đầu mua xe hơi với tài chính vừa phải nhưng muốn một bước lên xe sang nên kết duyên với những chiếc Mercerdes W203 này và đã phải nếm mùi vị đắng và chia tay rất sớm mặc dù trước đó họ luôn bảo vệ cho quyết định mua xe của mình. Tóm lại, người mua xe cần phải đề phòng và cảnh giác cao độ, chỉ một sơ suất bỏ qua khâu kiểm tra nào đó khi mua xe bạn sẽ phải trả giá hàng chục triệu đồng.
Chevrolet Captiva
Chevrolet Captiva
Còn nhớ cuối năm 2006, chiếc crossover Chevrolet Captiva đã tạo cơn sốt khi được giới thiệu tại thị trường Việt Nam. Cầu vượt cung vì chiếc xe hội tụ được nhiều yếu tố như: giá "mềm" và ngoại hình bắt mắt, lại mang thương hiệu Chevrolet, thị trường xe nói chung đang tốt, ... Tiếc rằng phong độ của chiếc xe không duy trì được lâu khi xuất hiện nhiều nhược điểm trong quá trình sử dụng như hao xăng, cảm giác không an toàn khi chạy tốc độ cao, xe thiếu độ vọt dù sử dụng động cơ 2.4L, và chịu sự cạnh tranh của các đối thủ.
Chính vì vậy, mức tiêu thụ của Captiva đã giảm nghiêm trọng và những chiếc xe mới không còn nhận được sự quan tấm mấy từ những khách hàng sành về xe. Số phận của những chiếc xe cũ mặc dù còn ít tuổi kèm với giá bán rất "mềm" nhưng cũng nhận được sự dè dặt từ người sử dụng tìm mua xe cũ. Những chiếc Captiva đời 2007 - 2009 có giá rao chỉ từ 350 triệu VND đến hơn 400 triệu VND, rẻ hơn cả những chiếc xe đô thị nhỏ có tuổi đời 2 - 3 năm.
Ford Mondeo
Ford Mondeo
"Bán xe Ford Mondeo đời 2005, màu đen, dung tích động cơ 2.5L, nhiên liệu xăng. Số tự động 5 cấp, camera định vị hành trình, la-zăng đúc, phanh ABS, xi-nhan trên gương. Gương kính chỉnh điện, cửa nóc, ghế da, túi khí. Màn hình DVD, CD, radio, điều hòa hai chiều, giá 305 triệu VND". Đó là một trong những mẩu tin điển hình đăng bán Mondeo trên một website rao vặt. Vậy có gì bất thường ở đây không?
Giới thiệu ra thị trường từ năm 2002, chiếc xe có ngoại hình, trang bị rất tốt, xếp cùng hạng với Camry hay Accord, thậm chí còn trội hơn mẫu xe Nhật về trang bị và công nghệ. Cái dớp "chạy Ford tốn xăng" có lẽ vẫn đeo đuổi thế hệ Mondeo này. Sự vận hành ổn định khiến người cầm lái luôn cảm thấy hài lòng với Ford Mondeo, nhưng những ai có thói quen hay cân đo đong đếm nhiên liệu hẳn sẽ phải xót ruột, đặc biệt là phiên bản 2.5L V6.
Với giá cả nhiên liệu đắt đỏ như hiện nay, cộng với giá cả thay thế phụ tùng cũng cao nên Mondeo đã qua sử dụng không thu hút được khách hàng.
Số lượng xe bán trên thị trường không phải là ít, tuy nhiên mức tiêu thụ ngày càng giảm. Ngay cả những thế hệ Mondeo cải tiến kế tiếp (mặc dù đã tin cậy và kinh tế hơn rất nhiều) cũng không tạo được sự quan tâm nhiều do tàn tích của thế hệ Mondeo được giới thiệu lần đầu tại Việt Nam để lại, thậm chí Ford Việt Nam đã phải quyết định ngừng lắp ráp.
Theo Quốc Huy (Autocarvietnam.vn)
Hành trình đi tìm xe Simson Chỉ có những người thực sự đam mê và kiên trì mới có thể chơi Simson, một huyền thoại về sự sang trọng của những năm 70-80 của thế kỷ trước. Khi nhắc tới các dòng xe xã hội chủ nghĩa, ngoài Minsk, sidecar thì không thể không nhắc tới Simson. Nếu lấy vàng làm thước đo, dòng xe 2 bánh này trước...