Việt Nam-Lào: 70 năm “dựa vào nhau” để đứng vững
Nhân dân Lào luôn ghi nhớ sự hy sinh, giúp đỡ của các chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào và gọi họ là “bộ đội nhà Phật”.
Các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào. Ảnh tư liệu
“Giúp bạn cũng chính là tự giúp mình”
70 năm về trước (ngày 30/10/1949), Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định tổ chức các lực lượng quân sự của Việt Nam được cử làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.
Việc xác định danh nghĩa quân tình nguyện Việt Nam tại Lào đã đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Lào; đồng thời tạo cơ sở quan trọng để tăng cường quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa quân đội hai nước Việt Nam và Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng ( Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), cho rằng, quyết định mang tính lịch sử nói trên của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương là nhằm phục vụ yêu cầu khách quan của lịch sử, đó là cả hai nước cần phải dựa vào nhau để có thể chống lại các thế lực xâm lược lớn như thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trước đó, mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đến tháng 10/1930 thì đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, có trách nhiệm lãnh đạo cách mạng 3 nước Đông Dương. Việc xây dựng Đảng để lãnh đạo phong trào được tiến hành ngay từ cuối năm 1930. Đến năm 1934, Đảng bộ Ai Lao đã được thành lập gồm 16 người, sau này đều đóng vai trò then chốt trong việc lãnh đạo cuộc cách mạng Lào khi tách ra thành Đảng riêng.
PGS-TS Nguyễn Trọng Phúc
Đến cuối năm 1945, sau khi Việt Nam và Lào đều giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cuộc gặp gỡ lịch sử với Hoàng thân Lào Shouphanouvong tại Hà Nội để bàn việc Liên minh Việt – Lào trong tương lai nhằm chống thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt – Lào.
Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam vào ngày 23/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng kháng chiến sang cả Campuchia và Lào. Đến năm 1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cử lực lượng sang giúp nhân dân Lào kháng chiến. Đảng Cộng sản Đông Dương tuy đã tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật và vẫn lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến của cả 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Video đang HOT
Như vậy, có thể nói, sau năm 1945, một thời kỳ mới đã được mở ra và khối liên kết giữa Việt Nam, Lào và Campuchia ngày càng gắn bó hơn. Đến ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định cử các lực lượng quân đội Việt Nam sang chiến đấu ở Lào. Quân tình nguyện cùng với lực lượng kháng chiến ở Lào đã phối hợp chiến đấu và đến ngày 1/11/1949, đã thành lập Ban Công tác Lào trực thuộc Trung ương Đảng.
“Sau này, trong các trận chiến lớn trên chiến trường Lào và Việt Nam như chiến dịch Đường 9 Nam Lào, Xuân-Hè 72, Cánh đồng Chum Xiengkhuang đều có sự phối hợp chiến đấu, giúp đỡ lẫn nhau giữa quân đội Việt Nam và Lào. Đó như một quy luật khách quan không thể khác, giúp mang lại thắng lợi cho cách mạng của 2 nước.
Từ sau năm 1975, khi 2 nước giành được độc lập, thống nhất, mối quan hệ hợp tác đặc biệt giữa Việt Nam và Lào ngày càng phát triển, trên cả 3 trụ cột về an ninh-chính trị, kinh tế và văn hóa. Đặc biệt trên mặt trận quốc phòng-an ninh, giữ gìn, bảo vệ thành quả cách mạng của 2 nước, tạo tiền đề, điều kiện giúp đỡ lẫn nhau đúng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn cũng chính là giúp mình”, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc nhận định.
“Bộ đội nhà Phật” trong lòng nhân dân Lào
Từng là chuyên viên cao cấp tham gia lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào trong gần 40 năm, ông Nguyễn Văn Nghiệp nhớ lại, quán triệt lời dạy của Bác Hồ là “giúp bạn cũng chính là giúp mình”, các chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào đã phát huy truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, kết hợp giữa tinh thần yêu nước nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản chân chính trong thực hiện nhiệm vụ giúp cách mạng Lào.
Ông Nguyễn Văn Nghiệp, chuyên gia cao cấp tham gia lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào.
“Các chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã phấn đấu, hy sinh cả cuộc đời cho cách mạng Lào, nhiều người từ tuổi mười tám đôi mươi cho đến lúc về hưu. Thậm chí có người về hưu rồi, bạn gọi sang giúp đỡ lại lên đường. Ta sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất kỳ điều gì cách mạng Lào cần”, ông Nghiệp chia sẻ.
Cũng theo ông Nghiệp, quân tình nguyện không chỉ là đội quân chiến đấu mà còn là đội quân làm công tác dân vận khéo và giỏi. Chính điều này đã tạo cơ sở thuận lợi cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trước đây cũng như để xây dựng quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào trong suốt mấy chục năm qua.
Ngày 19/8/1948, ông cùng các chiến sĩ tình nguyện, chuyên gia Việt Nam xuất quân từ Quân khu 5 sang Lào. Trong buổi lễ xuất quân, bác Phạm Văn Đồng đã căn dặn ông và các chiến sĩ tình nguyện: “Các đồng chí phải tổ chức vận động được nhân dân Lào đứng dậy kháng chiến thì mới thắng được giặc Pháp xâm lược. Các đồng chí phải nhớ lời của Bác Hồ, khi sang Lào thì phải coi núi, sông, cây cỏ, ruộng đồng của Lào như quê hương mình, và phải tôn trọng, thương yêu nhân dân Lào như đồng bào mình”.
Do khi mới sang, không biết tiếng nói, phong tục tập quán và tình hình địa phương, các chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã phải chia thành từng tổ 3-3 đi sâu vào dân, bám dân với phương châm “bắt mối, xâu chuỗi và tìm nòng cốt” để từ đó phát triển cơ sở, xây dựng đoàn thể quần chúng, dân quân du kích, chính quyền phục vụ cách mạng.
Để bám dân tại các vùng dân tộc thiểu số, các chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia Việt Nam thậm chí còn phải đóng khố, cởi trần, để tóc dài, phơi nắng cho da đen để có thể gần gũi người dân địa phương liên tục trong 4 năm liền.
Những gian khổ và hy sinh của các chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã giúp tạo dựng niềm tin và tình cảm thân thương mà chính quyền và nhân dân Lào dành cho họ. Chính quyền và nhân dân Lào sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, “cùng ăn, cùng ở, cùng sản xuất, cùng chiến đấu” với chiến sĩ tình nguyện và chuyên gia Việt Nam.
“Nhiều anh em chúng tôi được nhân dân Lào nhận làm con nuôi, em nuôi, đặt cho những tên Lào vừa thân thương, vừa dễ nhớ. Các bô lão Lào đã gọi chúng tôi là “Bộ đội Cụ Hồ đúng là Bộ đội của nhà Phật. Điều đó đã tạo nên liên minh vững chắc giữa 2 dân tộc, đảm bảo thành công cho các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay”, ông Nghiệp nói.
Bà Nguyễn Phương Nga, Chủ tịch Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam.
Để phát huy mối quan hệ truyền thống đặc biệt Việt Nam – Lào trong thời gian tới, theo bà Nguyễn Phương Nga, Chủ tịch Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam, bên cạnh những thành tựu hợp tác về chính trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng, hai nước cần thúc đẩy kết nối 2 nền kinh tế, giáo dục, nhất là giáo dục về nền tảng truyền thống trong mối quan hệ giữa 2 nước.
Bà Nguyễn Phương Nga lưu ý, Việt Nam và Lào cần xử lý tốt những vấn đề nhạy cảm có thể phát sinh trong bối cảnh tình hình thế giới có rất nhiều phức tạp, phong trào Dân tộc chủ nghĩa đang nổi lên và nhiều thế lực đang tìm mọi cách chia rẽ tình hữu nghị Việt Nam-Lào. Chính vì thế, việc đẩy mạnh tuyên truyền về mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa 2 nước là hết sức quan trọng và cần thiết./.
Theo Trần Khánh/VOV.VN
Chọn cán bộ sai thì rất nguy hiểm
Quy định 205 của Bộ Chính trị nêu rất cụ thể việc kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, nghiêm cấm thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị để vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình nhằm thao túng, can thiệp công tác cán bộ.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc- nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng trao đổi với PV Báo Đại Đoàn Kết về vấn đề này.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc.
PV: Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về Quy định 205 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền trong bối cảnh chúng ta chuẩn bị tiến tới đại hội Đảng các cấp, và đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Bộ Chính trị có quy định rõ ràng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Theo tôi đây là văn bản có tính giá trị pháp lý rất cao, là cơ sở để đẩy mạnh hơn quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng cũng như phòng ngừa những tiêu cực trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, trong đó có tiêu cực về công tác cán bộ. Trước đây chỉ nêu "kiểm soát quyền lực" nói chung;, nhưng lần này Quy định 205 nhấn mạnh đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Như vậy đáp ứng được yêu cầu thực tế, qua đó phòng ngừa việc lạm quyền, lộng quyền, vi phạm quyền lực trong công tác bố trí, sắp xếp cán bộ. Cá nhân tôi đánh giá đây là bước phát triển quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là công tác cán bộ.
Đáng chú ý khi Quy định này đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản đó là các tổ chức đảng, cấp ủy và mỗi cán bộ đảng viên căn cứ vào đó để xử lý những vi phạm về kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, "chạy chọt" trong công tác cán bộ là hiện tượng đã diễn ra trên thực tế và thời gian qua chúng ta đã phải xử lý nhiều vụ vi phạm. Quy định này của Bộ chính trị là để ngăn chặn những hiện tượng đã có, hướng tới phòng chống chạy chức chạy quyền, và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Nếu như đường lối, chính sách sai có thể sửa được, nhưng nếu chọn sai cán bộ thì rất nguy hiểm, có thể dẫn tới thất bại, thậm chí đổ vỡ.
Từ thực tế vừa qua, theo ông đâu là bài học kinh nghiệm chúng ta cần rút ra trong công tác cán bộ, để qua đó có cách làm tốt hơn?
- Qua các thời kỳ cách mạng, sở dĩ chúng ta thành công thắng lợi lớn đều do sự lựa chọn, bố trí sắp xếp cán bộ đúng, phát huy được vai trò của cán bộ trong mọi thời kỳ. Đó là bài học cho ngày nay về công tác lựa chọn cán bộ. Từ nhiều nhiệm kỳ nay, công tác cán bộ đã bắt đầu xuất hiện những tiêu cực cho nên Quy định lần này của Bộ Chính trị chính là để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ, đặc biệt là hiện tượng chạy chức, chạy quyền, rồi sử dụng quyền lực trong công tác cán bộ.
Như vậy chúng ta cần phải chú trọng đến vai trò của các cấp ủy Đảng vì công tác cán bộ là việc của Đảng, bên cạnh đó cũng gắn với đánh giá cán bộ một cách thực chất hơn, thưa ông?
- Chúng ta phải nâng cao vai trò của các cấp ủy Đảng, đặc biệt là người đứng đầu. Trong lựa chọn cán bộ phải nhấn mạnh đến trách nhiệm của người đứng đầu, nếu người đứng đầu không thực sự vì sự phát triển của tổ chức đảng sẽ dẫn tới chọn sai, bắt đầu từ khâu đánh giá cán bộ. Vì công tác cán bộ có 5 khâu gồm: Đánh giá; quy hoạch; đào tạo bồi dưỡng; xếp sắp bố trí; thực hiện hệ thống các chính sách cán bộ. Nếu làm đúng quy trình này, bước đầu tiên bao giờ cũng là đánh giá cán bộ, đánh giá đúng mới quy hoạch tốt, quy hoạch xong phải đào tạo tốt, từ đó mới xắp xếp bố trí và có chính sách hợp lý.
Trong bối cảnh hiện nay, sau ban hành Quy định, theo ông có thể ngăn chặn được tình trạng chạy chức chạy quyền hay không?
- Muốn thực thi Quy định 205 có hiệu quả trước thềm diễn ra Đại hội đòi hỏi trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức Đảng, các cấp ủy và trách nhiệm của người làm công tác cán bộ, công tác tổ chức và trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên chúng ta mới có thể thực hiện được. Bên cạnh đó, cộng với sự giám sát của nhân dân, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chúng ta mới có thể thực hiện được.
Thưa ông, Quy định 205 đã nêu rõ MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và các cơ quan dân cử thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay chạy chức, chạy quyền thì kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra và xử lý, đồng thời giám sát việc thực hiện kiến nghị theo quy định. Vậy theo ông làm sao có thể phát huy được vai trò của Mặt trận và nhân dân trong việc chống chạy chức, chạy quyền?
- Có hai cách giám sát. Một là giám sát trực tiếp, tức là bản thân người dân và các tổ chức quần chúng, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thấy hiện tượng có thể phản ánh ngay với Đảng để xử lý kịp thời các vụ việc. Hai là giám sát thông qua đại diện như MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội kiến nghị với Đảng về công tác cán bộ. Theo tôi những kiến nghị chân thành đó, Đảng cần phải nghiêm túc xem xét, xử lý. Chúng ta cần coi trọng cả hai cách thức giám sát này. Các tổ chức cũng cần chú ý đến sự phản biện, hay những đề xuất của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội về công tác cán bộ. Lắng nghe để xử lý, nhưng quan trọng phải xử lý kịp thời, không để kéo dài vì công tác cán bộ tác động trực tiếp đến công việc lãnh đạo. Bên cạnh đó, chế độ tiếp dân của người đứng đầu đã được quy định, cho nên người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các ngành, địa phương phải nghiêm chỉnh thực hiện chế độ tiếp dân - đó cũng là kênh thông tin để lắng nghe ý kiến của người dân.
Trân trọng cảm ơn ông!
H.Vũ (thực hiện)
Theo ĐĐK
Công tác xây dựng Đảng đã bắt đúng mạch, đúng tâm tư nguyện vọng của nhân dân Diễn ra từ ngày 7-12/10/2019, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII có ý nghĩa hết sức to lớn, sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trước khi bước vào năm 2020 - năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Một trong những nội dung lớn được Hội nghị Trung ương...