Việt Nam báo động ô nhiễm không khí trong nhà
Theo một công bố của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2012 có 7 triệu ca tử vong liên quan tới ô nhiễm không khí trên toàn cầu. Trong đó, 3,3 triệu ca tử vong bắt nguồn từ ô nhiễm trong nhà, tập trung ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Một nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy, nhiều văn phòng, cao ốc ở Hà Nội đang có dấu hiệu ô nhiễm.
Bếp than tổ ong là một nguồn gây ô nhiễm không khí trong nhà khá phổ biến ở Việt Nam. Ảnh: Như Ý
Nhiều chất độc ở không khí trong nhà
Từ khi chuyển về căn hộ mới ở khu đô thị Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, những người trong gia đình anh Nguyễn Văn Đạt bị dị ứng, khó thở, đau đầu. Riêng hai cậu con trai thường xuyên bị ho. Đưa cháu đi khám, bác sỹ chẩn đoán bị viêm phổi.
Anh Đạt cho biết, khi chuyển về nhà mới, vợ chồng anh có sơn lại phòng, đánh vecni bàn ghế, mua thêm nhiều đồ nội thất mới. Theo lời bác sỹ, các cháu bị viêm phổi có thể do hít phải không khí trong nhà chứa nhiều hóa chất độc hại thải ra từ những dụng cụ trên.
Theo thạc sỹ Ngô Quốc Khánh, Viện Nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ Lao động, nghiên cứu của WHO chỉ ra các chất ô nhiễm thông thường có thể tìm thấy trong nhà (nhà ở, văn phòng làm việc) là bụi bông, khói thuốc, Bezene, Formaldehyde, Naphthalene; Nitrogen dioxide ; Polycylic aromatic hydrocarbones; Radon; Tricloroethelene; aminang; ozone; toluene; vi sinh vật.
Việt Nam hiện chưa có tiêu chuẩn không khí trong nhà. Tuy nhiên nếu áp các chỉ số trên vào một số tiêu chuẩn của quốc tế thì thấy vượt tiêu chuẩn cho phép.Việt Nam hiện chưa có tiêu chuẩn không khí trong nhà. Tuy nhiên nếu áp các chỉ số trên vào một số tiêu chuẩn của quốc tế thì thấy vượt tiêu chuẩn cho phép.
Các chất gây ô nhiễm trên được phát ra từ nhiều nguồn trong nhà như khói thuốc lá, bếp than tổ ong, bếp dầu, bếp ga (thải ra khí CO2). Quá trình xào nấu thức ăn sẽ bốc ra mùi làm ô nhiễm không khí trong bếp. Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi như forrmaldehyte, benzen, axeton phát sinh từ thiết bị văn phòng như máy in, máy photocopy, thảm lau chùi, đồ gỗ , sơn, chất tẩy rửa, đồ nhựa. Mặt khác, những nơi ồn ào hoặc giá rét thường đóng kín cửa sổ (để chống ồn và chống rét) khiến các loại khí độc hại không thoát ra ngoài được.
Một nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ Lao động tại sáu văn phòng trong bốn tòa nhà ở nội thành Hà Nội cho thấy, nồng độ CO2 trong không khí trung bình là 860ppm (nơi cao nhất là 940ppm), nồng độ Formaldehyde là 0,023 ppm (cao nhất 0,046 ppm), nồng độ ozon là 0,067ppm (cao nhất là 0,091ppm), nồng độ các chất hữu cơ dễ bay hơi là 6,33 ppm, nồng độ bụi hô hấp là 0,208 mg/m3, các chỉ tiêu sinh vật như tổng nấm là 1285Sl/m3 kk.
Việt Nam hiện chưa có tiêu chuẩn không khí trong nhà. Tuy nhiên nếu áp các chỉ số trên vào một số tiêu chuẩn của quốc tế thì thấy vượt tiêu chuẩn cho phép. Ví dụ nồng độ forrmaldehyde vượt quy định của Viện Quốc gia về an toàn và Sức khỏe nghề nghiệp của Mỹ (NIOSH ), nồng độ bụi hô hấp vượt tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn Chất lượng không khí quốc gia (NAAQS) của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (USEPA, 1987).
Video đang HOT
Riêng chỉ tiêu về vi sinh vật vượt xa khuyến cáo rất nhiều lần, chứng tỏ môi trường không khí trong nhà được khảo sát đều ô nhiễm về vi sinh vật. Nguyên nhân là do việc sử dụng tuần hoàn không khí của hệ thống điều hòa, thông gió.
Bếp than tổ ong là một nguồn gây ô nhiễm không khí trong nhà khá phổ biến ở Việt Nam. Ảnh: Như Ý
Gây ra nhiều bệnh nguy hiểm
Các chất gây ô nhiễm trong nhà đều tác động xấu tới sức khỏe con người. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liệt kê formaldehyde vào loại hóa chất độc hại với sức khỏe.
Nếu tiếp xúc với hóa chất này trong thời gian dài thì dù hàm lượng cao hay thấp cũng gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng cho da và hệ thống hô hấp, các bệnh về bạch cầu, gây ung thư nhiều cơ quan trong cơ thể như mũi, họng, phổi. Sự tồn tại của formaldehyde ở môi trường trong nhà (do gỗ, rèm cửa, chăn gối, drap trải giường, bọc đệm ghế, thảm..) luôn cao hơn môi trường ngoài trời. Vì vậy việc nhiễm formaldehyde đối với sức khỏe con người diễn ra liên tục và có tính tích lũy.
Khí Ôzôn cũng làm tổn thương đường dẫn khí, gây viêm các tế bào gây ho, ngứa họng, khó chịu trong lồng ngực đồng thời làm giảm chức năng phổi. Ôzôn cũng làm nặng hơn các bệnh về hô hấp và giảm khả năng của cơ chế chống lại vi sinh vật xâm nhập vào hệ hô hấp, nhất là bệnh hen suyễn.
Trong khi đó, tiếp xúc nhiều với benzene có thể gia tăng nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu cũng như nhiều loại bệnh khác liên quan đến máu huyết. Chất này còn ảnh hưởng đến hệ thần kinh và gây kích thích (irritation) đường hô hấp, mắt và da.
Theo đánh giá của WHO, ô nhiễm không khí trong nhà đáng lo ngại nhất vì phần lớn hoạt động của con người diễn ra trong nhà (theo nghiên cứu của Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ, con người dùng khoảng 80-90% hoạt động trong nhà).
Một công bố của WHO chỉ ra năm 2012 có bảy triệu ca tử vong liên quan tới ô nhiễm không khí trên toàn cầu. Trong đó, 3,3 triệu ca tử vong bắt nguồn từ ô nhiễm trong nhà, tập trung tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Ô nhiễm không khí trong nhà ảnh hưởng cao gấp 2-8 lần so với các bệnh có nguyên nhân là ô nhiễm bên ngoài.
Theo thạc sỹ Ngô Quốc Khánh, hiện Việt Nam chưa có tiêu chuẩn hay khuyến cáo chính thống nên việc đánh giá chất lượng môi trường không khí trong nhà vẫn đang là thách thức. Vì vậy cần nhanh chóng nghiên cứu, biên soạn tiêu chuẩn, khuyến cáo về nồng độ chất ô nhiễm cho phép trong không khí trong nhà.
Ngoài ra cũng nên tổ chức quan trắc, đo đạc và đánh giá chất lượng không khí trong nhà định kỳ tại các tòa cao ốc, văn phòng nhằm tránh ảnh hưởng đáng tiếc đến sức khỏe con người.
Để hạn chế ô nhiễm trong nhà Các chuyên gia tư vấn để hạn chế ô nhiễm trong nhà nên thường xuyên vệ sinh nhà cửa như hút bụi, giặt rèm cửa, giặt thú nhồi bông; hạn chế dùng thảm; tận dụng khí trời để lưu thông các chất ô nhiễm trong nhà (tuy nhiên, không nên mở cửa sổ nếu quanh nhà có nguồn khí thải ô nhiễm); không nên hút thuốc trong nhà, không vận hành xe ô tô hoặc động cơ chạy bằng nhiên liệu trong ga-ra trong nhà. Nếu đun nấu bằng than, củi, dầu lửa, nhà bếp cần có ống khói. Đồ nội thất mới hoặc các căn phòng mới sửa chữa, sơn phết lại thường có mùi dung môi phát thải vào không khí, đây là các chất rất độc hại, cần mở cửa phòng để bay bớt mùi dung môi; trồng thêm cây xanh để điều hòa không khí.
Theo Tiền Phong
Nguyên nhân sâu xa tham vọng biển của TQ
Biển cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thànhđiều kiện tiên quyếtcủa sự thống lĩnh khu vực.
Truyền thống chiến lược lớn của Trung Quốc là hướng vào lục địa. Ngoại trừ một vài lần dưới thời nhà Nguyên và nhà Minh, nói chung đế chế Trung Hoa vẫn chấp nhận để các thế lực khác chiếm ưu thế trên những vùng biển ngoài khơi Trung Quốc. Sự cùng tồn tại của bá quyền Trung Quốc trên đất liền và vai trò thống trị của ngoại bang trên biển là kết quả của 3 điều kiện chủ yếu, và cả ba đều không còn tồn tại trong thời đại ngày nay.
Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc dễ bị tấn công nhất ở phía Bắc và phía Tây, nơi họ phải đối mặt với những đội quân của người du mục Trung Á là những đội quân cơ động nhất và giỏi đánh thọc sâu nhất của thời bấy giờ. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung này có thể lao tới, xuyên qua và chinh phục toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Những hiểm họa từ những đội quân du mục này lớn hơn hẳn những nguy hiểm từ dân đi biển ở phía Đông và phía Nam, những người cùng lắm chỉ có thể cướp phá các thành phố hay làng mạc dọc theo bờ biển Trung Quốc.
Nhưng kể từ thế kỷ 19, điểm yếu về quân sự của Trung Quốc đã chuyển sang vùng bờ biển. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung của ngày nay là các tàu sân bay, tàu khu trục, và tàu ngầm được trang bị máy bay siêu âm, máy bay tàng hình, máy bay không người lái và tên lửa hành trình. Trong mắt các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc ngày nay, việc kiểm soát biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông đã trở nên tối quan trọng đối với nền quốc phòng và an ninh của Trung Quốc.
Những vùng biển này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế đối với Trung Quốc. Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn toàn tự cung tự cấp và không phải dựa vào ngoại thương để phát triển. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong thời gian gần đây chủ yếu là nhờ hội nhập kinh tế với thế giới bên ngoài.
TQ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép tại thềm lục địa VN. Ảnh: AP
Từ khi phát động "cải cách và mở cửa" vào năm 1979, tỉ lệ phụ thuộc vào ngoại thương của Trung Quốc, tính theo tỉ lệ ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc nội, đã tăng từ 10% lên tới hơn 70%. Bên cạnh sự phụ thuộc này, kể từ năm 1998, Trung Quốc đã là một nước nhập siêu về năng lượng. Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đã chiếm tới 11% tổng năng lượng nước này sử dụng trong năm 2011.
Những số liệu thống kê này cho thấy nền kinh tế Trung Quốc cơ bản sẽ sụp đổ nếu bị cắt đứt các liên kết thương mại với thế giới bên ngoài. Điều khiến cho biển còn quan trọng hơn nữa đối với Trung Quốc là việc phần lớn ngoại thương và năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đều phải vận chuyển qua biển Hoa Đông, biển Đông và eo biển Malacca.
Không chỉ có một mình Trung Quốc phải phụ thuộc vào các tuyến đường giao lưu trên các vùng biển này. Thực ra, các biển Đông Á này là huyết mạch của cả châu Á. Hơn một nửa thương mại hàng hóa của khu vực, khoảng một nửa ngoại thương của Trung Quốc, Ấn Độ và Australia, khoảng 80% lượng dầu và khí đốt nhập khẩu của Trung Quốc, 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản, và 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc phải đi qua các vùng biển này. Tầm quan trọng về kinh tế và quân sự của các vùng biển Đông Á đảm bảo rằng không một quốc gia nào ở châu Á ngày nay có thể đạt được uy thế tuyệt đối trong khu vực trước khi trở thành kẻ mạnh nhất về hải quân trên vùng biển Tây Thái Bình Dương.
Có 3 lý do để Trung Quốc trong quá khứ vẫn để cho các nước khác thống lĩnh các vùng biển ngoài khơi của họ. Đôi lúc là do Trung Quốc còn quá yếu không thể thách thức được các cường quốc biển. Nhưng nói chung, những vùng biển này không hề có ý nghĩa quan trọng với Trung Quốc cả về quân sự lẫn kinh tế. Hơn nữa, các thế lực thống trị vùng biển đều chủ động tạo lập quan hệ chư hầu và triều cống với Trung Quốc.
Không một điều kiện nào trong số này là hiện thực của ngày hôm nay và ngày mai. Theo dự đoán, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuối thập kỷ này. Trong khi đó, ngân sách quân sự của Trung Quốc còn tăng trưởng nhanh hơn cả nền kinh tế. Các biển bao quanh Trung Quốc đã trở nên thiết yếu cho sự phát triển và phòng vệ của nước này. Và Hoa Kỳ, cường quốc thống trị trên biển châu Á, sẽ không dễ gì chấp nhận đứng dưới trong một trật tự thế giới do Trung Quốc đứng đầu.
Nhờ có toàn cầu hóa và những công nghệ vũ khí mới, biển cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thành điều kiện tiên quyết của sự thống lĩnh khu vực. Về phần Trung Quốc, sự gia tăng phát đạt của nước này sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận với biển hơn là việc sở hữu thị trường trên đất liền. Nhận thức rõ được những điều này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch đương nhiệm Tập Cận Bình, đã quyết định rằng Trung Quốc cần trở thành "cường quốc biển ở cấp độ toàn cầu".
600 năm trước, Trung Quốc đã phái một hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của viên thái giám người Hồi là Trịnh Hòa đi vào biển Đông và Ấn Độ Dương để áp đặt kiểm soát lên luồng thương mại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và mở rộng hệ thống chư hầu cho đế chế. Dù rất thành công, các cuộc viễn chinh này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian chưa đến 3 thập kỷ và đã được chứng tỏ là không hề nằm trong quy luật của lịch sử Trung Quốc. Cuối cùng thì Trung Quốc vẫn là một đế chế nông nghiệp, và nhiệm vụ chính của các chuyến đi của Trịnh Hòa chỉ là để phô trương trước những người ngoại bang trong vùng lòng chảo Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Ngày nay, Trung Quốc quay ra hướng biển do sự cần thiết khách quan hơn là vì ý đồ chủ quan muốn phô trương thế lực. Do vậy, sự thay đổi này sâu rễ bền gốc hơn rất nhiều so với các chuyến du hành từ 6 thế kỷ trước. So với những chuyến đi của Trịnh Hòa, sự chuyển hướng nhìn sang phía biển của Trung Quốc hiện giờ sẽ hứa hẹn có nhiều bạo lực hơn và cũng có nhiều ý nghĩa lịch sử hơn.
Sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc bản thân nó không nhất thiết sẽ gây nên mối đe dọa cho sự thống trị của Mỹ trên các vùng biển châu Á cũng như vai trò của Mỹ trong khu vực. Nhưng việc gã khổng lồ châu Á này xoay trục ra biển có thể sẽ đặt dấu chấm hết cho uy lực hải quân tuyệt đối của Mỹ trên vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mà hệ quả là làm suy yếu trật tự toàn cầu do Mỹ đứng đầu.
Theo Lê Hoàng Giang
Vietnamnet
*Bài được đăng theo Nghiencuuquocte.net, tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt. Tác giả bài viết, Tiến sĩ Alexander L. Vuving là Phó Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á - Thái Bình Dương tại Honolulu, Hoa Kỳ.
Chủ động nghiên cứu biển để phát triển bền vững Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam khá phong phú và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong điều tra, nghiên cứu, khai thác tiềm năng biển là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế. Tiềm năng...