Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu Chi cục thi hành dân sự khắc phục nhiều vi phạm
Trong quá trình trực tiếp kiểm sát tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư Kuin (tỉnh Đắk Lắk), VKSND huyện Cư Kuin đã phát hiện một số vi phạm của đơn vị này.
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến sai phạm được xác định là tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, chấp hành viên chưa cao, chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Cụ thể, trong hệ thống sổ sách thi hành án, đối với sổ theo dõi vật chứng, tài sản kê biên, tạm giữ không ghi cột “kết quả thi hành án”. Cả hai sổ thụ lý thi hành án (quyển số 1 và quyển số 2) không ghi vào cột “kết quả thi hành án” là vi phạm tại đoạn 2 khoản 4 Điều 29 của Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 của Bộ Tư pháp.
Ảnh: Minh họa.
Về hồ sơ thi hành án, qua kiểm tra 111 hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án, đoàn kiểm sát đã phát hiện: Có 4 hồ sơ chậm xác minh điều kiện thi hành án đối với người phải thi hành án. Trong đó, có 3 hồ sơ sau khi ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, Chấp hành viên chỉ mới tiến hành xác minh điều kiện thi hành án 1 lần và sau đó không tiếp tục xác minh. Một hồ sơ, từ khi ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đến nay, chấp hành viên không tiến hành xác minh điều kiện thi hành án.
Bên cạnh đó, có 2 hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án, Chấp hành viên không xác minh tài sản tại Văn phòng đăng ký đất đai của huyện để xác định tài sản là bất động sản của người phải thi hành án. Mặt khác, có 3 hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án, nhưng Chấp hành viên không thông báo kết quả xác minh bằng văn bản cho người được thi hành án biết.
Video đang HOT
Không những thế, qua kiểm tra 374 hồ sơ đã thi hành án xong, đoàn kiểm sát đã phát hiện có 5 hồ sơ chưa đ.ánh số bút lục và không ghi danh mục tài liệu.
VKSND huyện Cư Kuin cho rằng nguyên nhân khách quan dẫn đến những vi phạm nói trên là do tổng số biên chế Chấp hành viên của Chi cục Thi hành án dân sự còn ít, chưa đáp ứng tốt số lượng công việc thụ lý hàng năm có chiều hướng gia tăng, một số việc phức tạp. Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan được xác định, nhận thức pháp luật và tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, Chấp hành viên chưa cao, trong quá trình thực thi nhiệm vụ chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Công tác kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm của lãnh đạo Chi cục Thi hành án có lúc chưa kịp thời và sâu sát.
Trách nhiệm để xảy ra vi phạm nói trên, trước hết thuộc về lãnh đạo Chi cục Thi hành án dân sự, sau đó là trách nhiệm của Chấp hành viên được phân công thụ lý vụ việc.
Trên cơ sở đó, ngày 5/9/2018, VKSND huyện Cư Kuin đã ban hành văn bản kiến nghị Chi cục Thi hành án dân sự huyện: Tổ chức họp đơn vị để kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của các cá nhân đã để xảy ra sai phạm; khắc phục sửa chữa việc ghi chép sổ theo dõi vật chứng, tài liệu kê biên, tạm giữ, điền đầy đủ thông tin vào cột “kết quả xử lý vật chứng” và sổ thụ lý thi hành án (quyển số 1 và quyển số 2), điền đầy đủ thông tin vào cột “kết quả thi hành án”; ban hành thông báo cho các đương sự trong 3 hồ sơ vi phạm như đã nêu trên về việc người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án theo đúng quy định pháp luật; tiến hành xác minh điều kiện thi hành án là quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký đất đai đối với 2 hồ sơ đã nêu.
Đồng thời yêu cầu, Chi cục Thi hành án dân sự chấm dứt vi phạm, đảm bảo công tác thi hành án dân sự được thực hiện theo đúng quy định của Luật thi hành án dân sự và các văn bản liên quan.
Chính Cương
Theo baovephapluat
Xe máy gây t.ai n.ạn trong vụ án giao thông là vật mang dấu vết tội phạm
Việc trả lại phương tiện gây t.ai n.ạn cho bị cáo là hợp lý. Tuy nhiên, việc áp dụng khoản 2 Điều 106 của BLTTHS là không có căn cứ.
Vì vậy, cần quy định việc xử lý vật chứng đối với vật chứng là "vật mang dấu vết tội phạm" và "vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội" trong Điều 106 BLTTHS.
Kiểm sát online ngày 31/8/2018 đăng bài viết: "Xử lý vật chứng trong vụ án vi phạm quy định về giao thông đường bộ thế nào?" của tác giả Dương Thanh. Tôi có ý kiến như sau:
Trong vụ án "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" để xác định phương tiện tham gia giao thông đường bộ do bị cáo điều khiển có phải là "vật chứng" không và có phải là "phương tiện phạm tội" hay không ta cần làm rõ khái niệm thế nào là công cụ phương tiện phạm tội và xác định vật chứng là những vật nào.
Ảnh minh họa
Theo quy định tại Điều 89 BLTTHS năm 2015 thì "Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, t.iền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án".
Phương tiện phạm tội là dạng cụ thể của công cụ phạm tội. Công cụ phạm tội là đối tượng vật chất mà người phạm tội sử dụng để tác động lên đối tượng, qua đó gây thiệt hại cho đối tượng bị tác động. Công cụ và phương tiện phạm tội chỉ đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, còn đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý thì không coi là công cụ, phương tiện phạm tội mà coi đây là những "vật mang dấu vết tội phạm" hoặc "vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội".
Trở lại với nội dung vụ án, Nguyễn Văn T sử dụng chiếc xe máy để tham gia giao thông đường bộ với mục đích di chuyển trên đường, không phải để thực hiện hành vi phạm tội gây thiệt hại cho ông Trần Hoàng H. Do đó, chiếc xe máy mà H điều khiển không phải phương tiện phạm tội nó là phương tiện gây t.ai n.ạn. Tác giả cho rằng, đây là "vật mang dấu vết tội phạm" hoặc " vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội"
Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định việc xử lý vật chứng như sau: "Vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy; Vật chứng là t.iền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước; Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy". Việc xử lý vật chứng là "vật mang dấu vết tội phạm" và "vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội" chưa được quy định tại điều này.
Trong các vụ án "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" hiện nay, hầu hết các Tòa án đều vận dụng khoản 2 Điều 106 BLTTHS để trả lại phương tiện mà bị cáo sử dụng gây t.ai n.ạn cho bị cáo. Tác giả cho rằng việc trả lại phương tiện mà bị cáo sử dụng gây t.ai n.ạn cho bị cáo là hợp lý. Tuy nhiên, việc áp dụng khoản 2 Điều 106 của BLTTHS là không có căn cứ. Vì vậy, cần quy định việc xử lý vật chứng đối với vật chứng là "vật mang dấu vết tội phạm" và "vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội" trong điều 106 BLTTHS.
Phạm Châu Giang - TAQS khu vực 1 Hải quân
Theo kiemsat
Thanh Hóa: Kiểm tra dấu hiệu vi phạm Bí Thư xã Quảng Hùng và Chủ tịch xã Quảng Đại UBKT Thành ủy TP Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa vừa công bố quyết định kiểm tra dấu hiệu đảng viên vi phạm đối với ông Đặng Ngọc Vũ, Bí thư Đảng ủy xã Quảng Hùng và ông Phạm Văn Huyền, Chủ tịch UBND xã Quảng Đại, vì liên quan đến việc ký xác lập hồ sơ cấp 9 giấy chứng nhận quyền sử...