Victor Vũ: ‘Tôi đã sẵn sàng cho đám cưới’
Sau scandal “ Giao lộ định mệnh”, Victor khép mình trước mọi người, với cả đồng nghiệp, người quen chứ chẳng riêng báo giới… Nhưng nói chuyện rồi mới biết, Victor duyên dáng, dễ gần, thú vị và thông minh hơn những gì mà mọi người hình dung về anh.
Victor Vũ: “Rất khó nói tại sao tôi sinh ra lớn lên ở Mỹ lại hướng về văn hóa Việt. Phải chăng vì tôi rất gắn bó với gia đình, mà gia đình tôi thì rất Việt Nam…”
Khi sự cố Giao lộ định mệnh xảy ra cách đây 2 năm, gần như không ai có thể liên lạc được với Victor Vũ để hỏi bất cứ điều gì. Rồi theo cái trớn đó, Victor cũng khép mình trước mọi người, với cả đồng nghiệp, người quen chứ chẳng riêng báo giới.
Cuộc trò chuyện với Victor chỉ kéo dài hơn 2 tiếng, nhưng thời gian để sắp đặt, dỗ dành thì đến 2 tuần. Victor sẵn sàng trò chuyện với người phỏng vấn, nhưng lại không sẵn lòng cho một bài báo. Lời từ chối rất quen “Tôi có gì để nói đâu?”. Nhưng nói chuyện rồi mới biết, Victor duyên dáng, dễ gần, thú vị và thông minh hơn những hình dung.
Sản xuất Việt Nam, phát hành bên Mỹ…
- Hình như anh rất ngại báo chí? Anh có biết rằng khi anh “trốn” như vậy, anh sẽ không được lòng báo chí không?
- Tôi không ngại báo chí, nhưng bạn thấy đấy, tôi rất ít khi xuất hiện trên báo, trên những bài phỏng vấn mang tính chất chân dung lẫn đời tư. Đơn giản bởi vì tôi thấy mình chẳng có gì thú vị để nói. Người ta biết tôi qua phim là đủ rồi, tôi là nhà làm phim chứ có phải là diễn viên đâu?
- Anh sinh ra ở Việt Nam hay Mỹ?
- Tôi sinh ra ở Mỹ, năm 1975. Khi mẹ sang Mỹ thì tôi mới được 2 tháng trong bụng mẹ. Nghĩa là tôi được sản xuất ở Việt Nam mà phát hành bên Mỹ (cười). Lần đầu tiên tôi về Việt Nam là năm 2001, khi đó vừa xong kịch bản Oan hồn (Spirits), muốn về Việt Nam để quay phim đó. Nhưng đề tài ma quái, tâm linh này kia thì thời điểm đó rất khó được duyệt. Cũng hơi tiếc vì đó là một trong những kịch bản tôi hài lòng nhất, nếu được quay ở Việt Nam thì bối cảnh, câu chuyện sẽ phong phú hơn.
- Nghĩa là lý do trở về Việt Nam chỉ là để làm phim?
- Về Việt Nam khi đó khó lắm, với tôi. Vì bên Mỹ tôi có công việc, tôi làm cho một số hãng chuyên về kỹ xảo (Sony Pictures Imageworks và Eastman Kodak), công việc tôi đã bắt đầu ngay sau khi tốt nghiệp Loyola Marymount University. Về Việt Nam mấy tuần nhưng tôi phải lên kế hoạch kỹ. Tiếng Việt khi đó của tôi hơi tệ, giờ thì tốt hơn một chút. Những gì tôi biết về Việt Nam là qua sách vở, qua những câu chuyện bố mẹ kể, những bộ phim… tóm lại là những thứ rất bề ngoài, chưa có chiều sâu gì hết.
- Vậy sao lại quyết định phim đầu tay sẽ là về Việt Nam, vì phim đầu tay thường gắn với văn hóa sống của đạo diễn, mà văn hóa của anh thì chắc hẳn “đặc Mỹ”?
- Nhiều người nghĩ khi tôi về Việt Nam, tôi mới chọn con đường ở lại Việt Nam, làm phim Việt. Thật ra không phải như vậy. Tôi đã lựa chọn hướng đi của mình từ khi tôi bước vào trường điện ảnh. Phim năm thứ hai của tôi là Thiếu phụ Nam Xương (The promise of shadows). Đó là câu chuyện tôi được nghe kể đi kể lại rất nhiều. Sau đó phim tốt nghiệp của tôi tên là Pháo (Firecracker – 1997), câu chuyện về một gia đình Việt Nam sống ở Mỹ đang tan vỡ và tất cả bi kịch đó được nhìn qua mắt một đứa trẻ 7 tuổi. Nhưng cuối cùng đứa trẻ đó lại bị mù vì chơi pháo.
Rất khó nói tại sao tôi sinh ra lớn lên ở Mỹ lại hướng về văn hóa Việt. Ngay ở Loyola Marymount University nơi tôi theo học, nguyên một cái trường lớn đó cũng chỉ có 2 sinh viên Việt Nam. Đó là đạo diễn Tony Bùi lúc đó năm thứ 4 còn tôi năm nhất. Học chung một năm thì anh Tony Bùi về Việt Nam làm phim Bông sen vàng, rồi Ba mùa. Vậy là cả 2 người Việt đều có khuynh hướng làm phim về Việt Nam với câu chuyện Việt Nam.
- Anh cố cắt nghĩa thử xem?
- Có thể lý giải phải chăng vì tôi rất gắn bó với gia đình, mà gia đình tôi thì rất Việt Nam. Tôi cũng thường xuyên theo học các lớp Việt ngữ, đọc rất nhiều sách và tôi mê nhất truyện cổ tích như Trọng Thủy – Mỵ Châu, rồi những chuyện ma. Thêm nữa, lúc nào qua bên nhà nội cũng nghe mọi người kể chuyện ma, chuyện ma Việt Nam, rất là mê. Chuyện ma Việt Nam rất thú vị, khác chuyện ma Tây phương. Nó hướng về tâm linh nhiều, về nghiệp chướng, về phải trái, nhân quả. Đó đã là những cảm hứng cho tôi viết Oan hồn cùng với Nguyễn Hoàng Nam và Peter Võ.
Khi đi học, tôi toàn coi phim Mỹ, rồi phim Âu châu, hiếm khi có cơ hội xem phim Việt Nam. Mùi đu đủ xanh của đạo diễn Trần Anh Hùng là một bất ngờ với tôi. Một phim rất đơn giản, bỏ qua chuyện diễn xuất, tôi thấy phim có 2 cái: nghệ thuật của cine và văn hóa Việt. Hai cái này phối hợp ăn ý để có một phim đơn giản mà thú vị… Tôi đã nghĩ mình phải làm những bộ phim mà mình hào hứng với những câu chuyện có giá trị bằng những bối cảnh ở Việt Nam, diễn viên Việt Nam. Đó, rất nhiều thứ hơi hỗn loạn một chút xung quanh đã vô hình định hướng giùm tôi để tôi muốn làm phim Việt, ở Việt Nam.
- Nhưng dường như văn hóa Việt mà anh nói là điểm mạnh cũng chính là điểm yếu khi người ta nhận xét về những nhà làm phim Việt kiều, ngay cả Trần Anh Hùng?
- Đúng, chính xác là vậy! Nhưng phải nói đến thời điểm. Lúc đó tôi chưa về Việt Nam, tôi nghĩ đó là phim Việt. Còn nếu bây giờ tôi mới xem Mùi đu đủ xanh, tôi sẽ nghĩ đây là Việt Nam được nhìn qua con mắt người nước ngoài. Cảm giác đã khác! Rõ ràng là vậy. Thời điểm đó tôi cũng tìm coi rất nhiều phim của Trương Nghệ Mưu và Kurosawa. Tôi nhận ra mình thích thú với văn hóa phương Đông hơn là phương Tây. Năm đó tôi mới khoảng 18, 19 tuổi.
- Gia đình anh ra đi năm 1975, thường thì không dễ dàng để đồng ý cho con mình quay về Việt Nam lập nghiệp. Quyết định về Việt Nam của anh có phải là một sự “nổi loạn” với gia đình anh không?
- Chuyện về Việt Nam của tôi là chuyện nhỏ. Chuyện quyết định theo đuổi điện ảnh của tôi là chuyện lớn hơn! Gia đình tôi có hai chị, tôi và một em trai, một em gái nữa. Gia đình tôi không lo sợ tôi bị cản trở gì ở Việt Nam đâu. Mà lo lắng bởi điện ảnh không phải là nghề lý tưởng cho một người Mỹ gốc Việt như tôi. Bên đó ai cũng muốn con mình thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư hết. Nghệ thuật điện ảnh ở Việt Nam thời điểm đó (những năm 2000) chưa có những thuận lợi để phát triển. Nhưng mẹ tôi có nói: Mình chỉ thành công nếu mình được làm những gì mong muốn. Chính vì vậy, ba mẹ tôi ủng hộ tôi.
- Trước đó anh có sống trong sự bảo bọc không?
Video đang HOT
- Khi tôi đi học, có những chương trình vừa học vừa làm. Rồi tôi có vài cái học bổng cũng giúp cho tôi sống được. 17 tuổi tôi đã sống riêng, đã ở nội trú tại trường đại học và ở chung với bạn bè. Tôi cảm thấy tôi gặp rất nhiều may mắn trong cuộc đời. Tôi chưa bao giờ thấy mình quá vất vả. Khi mới ra trường tôi làm về kỹ xảo, công việc rất ổn định.
Có thời gian tôi tách ra làm quảng cáo riêng, công việc cũng rất ổn. Khi mọi thứ đang rất tốt như vậy, thì về Việt Nam quả là quyết định khó khăn. Cái này rất liều, nhưng vì tôi nghĩ nếu mình không được làm điều mình muốn thì mình không hạnh phúc. Làm kỹ xảo hay quảng cáo cũng thú vị, nhưng không phải là đam mê. Với tôi, hạnh phúc được làm điều mình yêu quan trọng hơn việc hưởng thụ một cuộc sống lúc nào cũng bình yên, ổn định…
“Nói ra thì khó hiểu, nhưng không hiểu sao tôi rất hào hứng khi xem phim Việt”
Thiên mệnh anh hùng từng là cơn ác mộng
- Cánh đạo diễn Việt kiều ở Việt Nam thường chơi khá thân với nhau. Có lẽ ở đây họ coi nhau là hàng xóm, khi có ai mới sang hoặc có phim nào mới ra mắt lại thấy họ kề cận cùng nhau rôm rả. Nhưng trong những cuộc trà dư tửu hậu, ít khi có mặt Victor… Anh có biết là trong số các đạo diễn Việt kiều về Việt Nam làm phim, mọi người nhận xét anh là chất Tây nhiều hơn chất Việt không?
- Tôi là Mỹ con mà (cười phá lên). Tôi không phải là Việt kiều, tôi Mỹ hơn một người Việt kiều. Khi lần đầu tiên tôi cho mẹ tôi coi Thiếu phụ Nam Xương, mẹ tôi ngạc nhiên vì tại sao tôi đi học điện ảnh Mỹ mà lại làm phim Việt. Nhưng cái đó như món nợ vậy. Dù tôi sinh ra ở Mỹ, ăn đồ Mỹ, nói chuyện Mỹ, là “Mỹ con” nhưng tâm hồn tôi hướng về Việt Nam. Điều đó chính tôi cũng không giải thích được. Có lẽ đó là tiếng gọi của nguồn gốc. Tại vì mình được sản xuất ở Việt Nam chăng? (cười)
- Trong gia đình anh, không khí Việt có đậm không? Ngày Tết, ngày lễ của người Việt, ra sao?
- Phim Pháo lấy cảm hứng từ những cái Tết rất Việt mà tôi đã trải qua cùng gia đình bên Mỹ. Tết nào gia đình tôi cũng tập trung, nguyên mùa Tết (khoảng 2 tuần), cả nhà sẽ hôm nay qua nhà cô này, mai qua nhà chú kia, rồi ông bà, bác, anh chị em… ăn uống và nói chuyện vui vẻ. Thật sự mà nói mấy năm nay, thời gian Tết tôi toàn kẹt phim nên không về nhà được. Tôi rất là nhớ những cảnh đó. Rất là nhớ!
- Có mâu thuẫn gì không khi dường như cái Tết Việt ở Mỹ trong anh lại ám ảnh hơn cái Tết Việt tại Việt Nam?
- Vì Tết với tôi là thời gian với gia đình, dành cho gia đình. Cái vui của Tết ở đây cũng rất hay, nhưng cái tôi thiếu là không khí gia đình. Thế nên mấy năm nay tôi hơi buồn mỗi khi Tết đến…
- Có ai trong gia đình anh muốn về Việt Nam cùng anh không?
- Có em trai tôi. Chú này khá thú vị, làm ngân hàng, công việc khá ổn. Nhưng mấy năm nay em tôi tự đọc sách rồi tự học cách viết kịch bản và đã viết được 3 cái. Đọc kịch bản, tôi thấy cấu trúc, ngôn ngữ điện ảnh… rất thú vị. Chỉ tiếc là những câu chuyện này xảy ra ở Mỹ chứ không phải ở Việt Nam. Chắc vài tháng nữa em trai tôi cũng sẽ về đây, học hỏi và tìm hiểu thêm cùng tôi.
- Có một số đạo diễn Việt kiều chọn Việt Nam như một “bàn đạp” để khi có đủ lông đủ cánh sẽ bay xa hơn. Anh có tính vậy không?
- Tôi không thể đại diện cho tất cả đạo diễn Việt kiều khác, vì ai cũng có khát vọng, mục tiêu riêng của họ. Với riêng tôi, hướng tôi lựa chọn là Việt Nam. Về Việt Nam làm phim là chuyện đương nhiên với tôi. Tôi kể câu chuyện Việt Nam bằng kinh nghiệm của người Việt Nam với những nhân vật Việt, làm cho khán giả Mỹ thì ai coi? Ngay cả các đạo diễn Trung Quốc hay Hàn Quốc thành danh mà muốn phát triển bên Mỹ cũng khó, không có thị trường và nói thẳng là không logic!
Tôi là người hiểu chuyện đó bởi tôi đã có 2 phim làm bên Mỹ là Oan hồn và Buổi sáng đầu năm (First Morning). Thay vì 2 phim mang hương vị Việt này, tôi có thể làm phim Mỹ chứ! Nhưng đó không phải là điều tôi muốn. Với tôi, những phim tôi đã làm, sẽ làm sẽ là phim Việt cho người Việt Nam.
- Anh từng có cơ hội nào khác chưa?
- Có chứ, trong một lần đem phim Pháo đi tham dự liên hoan phim, tôi đã từng được gặp nhà sản xuất của phim A few good men. Ông ta đưa cho tôi một kịch bản được viết bởi một tác giả khá thành công, nói về một gia đình qua Mỹ năm 1975 và hỏi tôi có thích không. Thật ra lúc đó tôi chỉ nghĩ muốn được làm phim với ông sản xuất này thôi. Vì “A few good men” là một phim tôi rất thích với Tom Cruise, Jack Nicholson… Chúng tôi đã ngồi xuống nói chuyện nhưng sau khi đọc kịch bản, tôi thấy mình là người Mỹ gốc Việt mà còn thấy câu chuyện quá xa lạ với người Việt vì nhiều chi tiết nó không Á Đông. Tôi mới nói họ cho mình 2 tháng để viết lại kịch bản. Khi nói điều đó, tôi biết chuyện có thể xảy ra là tôi sẽ mất cơ hội vì họ sẽ tự ái. Hai tháng sau, tôi vẫn nộp cho họ kịch bản tôi đã viết lại. Cơ hội đó đã qua.
- Các đạo diễn Việt kiều cũng có một điểm chung nữa, là rất thích nhắc đến cuộc chiến ở Việt Nam trước năm 1975. Anh thì sao?
- Tôi tin vào những giá trị khác. Tôi tin rằng Việt Nam, văn hóa Việt có quá nhiều thứ xứng đáng được khai thác, để đưa lên phim ảnh cho mọi người xem và thỏa mãn họ. Lý do thứ hai quan trọng hơn, tôi nghĩ mình chưa đủ hiểu biết, vốn sống cũng như khả năng để hiểu, để cảm và để làm phim về đề tài cuộc chiến.
Trước khi về Việt Nam, tôi cũng đã viết thử một số kịch bản, nhưng chỉ chừng 30 trang là bỏ ngang vì thấy mình không hiểu, không viết quá 30 trang được. Khi tôi về Việt Nam, bạn biết tôi nghĩ gì không? Hóa ra tất cả những gì tôi biết về Việt Nam, những gì tôi nghĩ rằng tôi biết về Việt Nam đều phải vứt hết ra ngoài cửa sổ. Việt Nam mà tôi sống ở đây, hôm nay, hoàn toàn khác, không phải như với những gì tôi tưởng tôi đã biết! Ví dụ cụ thể, giả sử như bạn sống ở Mỹ trong khu vực toàn người Việt như quận Cam-đi, thì bạn sẽ hình dung Việt Nam là con trâu, là nhà mái lá… Nhưng về Việt Nam, đâu phải vậy, cũng đâu phải đó là đề tài có thể khai thác. Việt Nam khác rồi!
- Anh từng từ chối một kịch bản vì thấy nó xa lạ với người Việt, nhưng gần đây phim “Touch” khi chiếu ở Việt Nam, có một số bạn Tây của tôi đi coi, họ cười lăn ra trước những cảnh Tâm đã làm với Brendan… Trong khi tôi nghĩ “Touch” làm rất Tây. Anh nghĩ sao về điều này?
- Hay là họ nghĩ người Á Đông không phải vậy? Tôi thích Touch, một phim hài lãng mạn, những tình huống trong đó mặc dù nó rất lạ nhưng thuyết phục. Tôi thích Touch còn bởi nó phá đi được những định kiến của người phương Tây nhìn người Á Đông, họ mặc định rằng người Á Đông phải khép nép kín đáo phải thế này thế kia theo cách nhìn của họ. Người châu Á không được phô bày cảm xúc… Tôi không đồng ý với điều này. Tôi nghĩ cũng giống tôi khi chưa về Việt Nam, người phương Tây đa số nhìn người Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, bằng cái hiểu biết khá là hạn hẹp.
- Trở lại với dự án gần đây nhất của anh, “Thiên mệnh anh hùng”. Thỏa mãn ước mơ được làm một phim kiếm hiệp Việt, anh có hài lòng không?
- Chẳng bao giờ tôi hài lòng 100% với những phim đã làm. Đúng là để thực hiện một bộ phim như Thiên mệnh anh hùng là ước mơ của tôi từ lâu. Nó cũng là một thử thách mới hoàn toàn cho tôi, kể cả cho nhà sản xuất. Nên có những vấn đề về thời gian nó nằm ngoài phạm vi kiểm soát của mình, làm cho công việc mình rất khó khăn. Tất nhiên tôi sẽ không muốn kể tội hay đổ lỗi cho ai, vì tôi là đạo diễn, tôi phải chịu trách nhiệm tất cả những gì diễn ra trên màn ảnh. Nhưng phải nói là được quay hơn 3 tháng ở những cảnh tuyệt đẹp của miền Bắc với sự ủng hộ của một ê kíp thật nhiệt tình, tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Nhưng vì vấn đề thời gian, giai đoạn hậu kỳ Thiên mệnh anh hùng với tôi lại là một cơn ác mộng!
- Là một đạo diễn “đắt show”, vậy sao anh không mạnh mồm ra điều kiện với nhà sản xuất?
- Nếu bên sản xuất muốn Thiên mệnh anh hùng chiếu Tết, mà tôi muốn 30/4 để có thêm thời gian… và cuối cùng, rủi phim không đạt được doanh thu như nhà sản xuất muốn thì sao? Tôi không muốn chịu trách nhiệm về những việc đó. Tôi không hiểu thị trường 100%, tôi cũng không biết nhà sản xuất họ làm cách nào để lấy lại vốn… Nhiều chuyện lắm nên tôi không thể bắt họ chiều mình. Nếu Thiên mệnh anh hùng là một thể loại khác, hoặc kinh phí không nhiều thế thì có lẽ tôi đã có đủ can đảm để yêu cầu nhà sản xuất cho mình thêm thời gian. Thiên mệnh anh hùng với tôi là một dự án lớn nhất, phức tạp nhất, áp lực nhất với tôi. Tất cả công sức mà tôi đã bỏ ra rất xứng đáng với sản phẩm. Đến giờ tôi vẫn không thể tin nổi là phim đã ra kịp trước Tết.
“Tôi tin rằng Việt Nam, văn hóa Việt có quá nhiều thứ xứng đáng được khai thác, để đưa lên phim ảnh cho mọi người xem và thỏa mãn họ”
Tưởng mình đã gãy sau cú Shattered
Nghi án Giao lộ định mệnh – Shattered nghĩ lại, cũng là một barie cần thiết khiến cho Victor đang say men chiến thắng khi cả hai dự án của mình ở Việt Nam kể từ Chuyện tình xa xứ đến Giao lộ định mệnh và chuẩn bị cho Cô dâu đại chiến đều được khán giả mến mộ, đón chờ. Khán giả khắt khe nhưng rộng lòng. Báo chí có lẽ cũng vậy. Chính những người từng lên án Victor Vũ nhất trong nghi án đạo phim Shatteredcũng không tiếc lời khen Cô dâu đại chiến và sau đó là Thiên mệnh anh hùng. Chuyện Giao lộ định mệnh – Shattered dần đi vào quên lãng, và lẽ ra tôi cũng không muốn xới lên nếu như Victor không chủ động nhắc đến…
- Có người bạn nói với tôi, một trong những lý do anh tránh báo chí là vì mỗi khi anh bắt đầu dự án mới, nhà sản xuất thường mở chiến dịch PR khiến công chúng kỳ vọng và đó cũng là cách gây áp lực cho anh?
- Đó là mặt trái của showbiz mà tôi phải chấp nhận. Đó là áp lực mà tôi không thể kiểm soát được. Dù vậy, tôi là người làm phim khá tập trung nên những lời nói bên ngoài thường không phải là tác nhân của stress. Nếu thế thì chắc tôi đã bỏ nghề lâu rồi!