Vì sao VN tránh được bi kịch thánh chiến?
Tâm lý ‘vái tứ phương’ khiến người Việt bao dung hơn, thân thiện, dễ dàng tiếp nhận sự khác biệt hơn. Các giá trị dung hòa lẫn nhau khiến Việt Nam không xảy ra chiến tranh tôn giáo hay thánh chiến.
LTS: Nhà báo Nguyễn Phương Mai, 37 tuổi, có bằng TS về giao tiếp đa văn hóa (Intercultural Communication) tại ĐH. Utrecht, Hà Lan. Chị là chuyên gia đào tạo về kỹ năng mềm, và giảng dạy môn Đàm phán/ Giao tiếp Đa văn Hóa tại ĐH Khoa học ứng dụng Amsterdam, Hà Lan và là nhà báo tự do. Chị đã đặt chân tới hơn 80 quốc gia khác nhau.
Nguyễn Phương Mai là tác giả cuốn “Tôi là một con lừa” xuất bản năm 2013. Ngày 8-3 sắp tới chị sẽ cho ra mắt cuốn tiếp theo, “Con đường Hồi giáo”, sau chuyến đi qua 13 nước Trung Đông thời kỳ hậu Mùa Xuân Ả Rập.
Tuần Việt Nam có cuộc trò chuyện với TS Nguyễn Phương Mai về ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng tới sự phát triển xã hội, và quan điểm tự do của phụ nữ.
TS Nguyễn Phương Mai. Ảnh: Lê Anh Dũng
‘Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài’
Những dịp đầu năm, mùa lễ hội, cũng là dịp để những nhà nghiên cứu, nhà văn hóa.. nhìn nhận vào sự ảnh hưởng và tác động của tôn giáo, tín ngưỡng, thế giới tâm linh vào đời sống con người. Chị có thể chia sẻ những kinh nghiệm của chị. Sự tác động này ở những quốc gia chị từng biết, có khác ở Việt Nam?
Thế giới chia ra ba nhánh tín ngưỡng: 1) đa thần giáo: thờ nhiều thần thánh như thần Mặt Trăng, thần Mặt trời… 2) độc thần giáo: thờ một Thượng Đế toàn năng duy nhất, gồm có đạo Do Thái, Thiên Chúa, đạo Hồi… 3) nhân thánh giáo: thờ người trần như Phật giáo, Khổng giáo, đạo ông bà…
Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á có xu hướng nghiêng về nhánh thứ ba: thờ những con người được suy tôn thành thần thánh. Điều đó giải thích việc có đền thờ các danh nhân, anh hùng dân tộc ở Việt Nam.
Suốt mấy ngàn năm dựng nước, người Việt luôn phải chống chọi với đủ các thế lực ngoại xâm khác nhau, là nơi giao hòa của nhiều nhánh cành văn hóa và tôn giáo khác nhau nên tâm thế của họ là “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, luôn có xu hướng biến chuyển để phù hợp. Người Việt du nhập rất nhiều tôn giáo. Trên bàn thờ của người Việt có thể có vừa có chúa Giê-xu, vừa có ảnh tổ tiên ông bà.
Trong miền Nam, người theo tam giáo có thể đến vái đền của đạo Hindu thờ linga, người Chăm Bà ni ngoài thờ Thượng Đế của đạo Hồi còn thờ thần mưa, thần gió. Đạo Cao Đài thuần Việt thờ cả một ông vua bên Thổ Nhĩ Kỳ. Linh vật giáo cũng rất phổ biến ở nước ta với niềm tin vào sự linh thiêng của sông, suối, hòn đá, bụi cây (thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề). Sự biến đổi mình để phù hợp với hoàn cảnh để tồn tại thấm vào và thể hiện ra ngay ở tôn giáo. Chính vì sự hòa trộn tôn giáo này mà chúng ta có tâm lý vái tứ phương,
Video đang HOT
Từ góc độ tích cực, sự phong phú đó khiến người Việt bao dung hơn, thân thiện, dễ dàng tiếp nhận sự khác biệt hơn. Các giá trị được lặn vào, dung hòa lẫn nhau; không loại trừ và mâu thuẫn. Chính điều đó khiến Việt Nam không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo lớn, không xảy ra bi kịch thánh chiến như ở các nước Trung Đông, châu Âu.
Tâm lý dễ chấp nhận văn hóa, tôn giáo khác khiến ngày lễ Noel cũng thành một ngày vui ở Việt Nam. Ảnh: Lê Anh Dũng
Khi thần thánh ‘mua’ được, giá trị tâm linh biến đổi
Những sự lộn xộn nơi đền chùa, lễ hội, buôn thần bán thánh… khiến người ta đang đặt những câu hỏi về giá trị của thế giới tâm linh. Điều này nên lý giải thế nào?
Nên bắt đầu từ câu hỏi: Tại sao có tôn giáo và taị sao tôn giáo vẫn còn tồn tại?
Thứ nhất, tôn giáo được hình thành từ khao khát có thể tìm ra câu trả lời cho muôn vàn dấu hỏi: Tại sao chúng ta ở đây? Chúng ta sinh ra từ đâu? Tại sao có sông núi biển trời?..vv. Bằng cách đó, tôn giáo hình thành với tư cách một khoa học.
Thứ hai, tôn giáo tồn tại để thỏa mãn hoài bão về sự bất tử, toàn năng, thống trị vũ trụ của loài người. Khát khao đó được phản chiếu thành hình ảnh thánh thần và Thượng Đế, bất sinh bất diệt, nhìn rõ tứ phương vũ trụ.
Thứ ba, tôn giáo có chức năng duy trì đạo đức xã hội. Niềm tin vào luật nhân quả, vào thiên đường và địa ngục sẽ góp phần vào việc hối thúc con người sống thiện hơn. Khi xã hội ổn định, người dân sống ngay thẳng, thiện tâm, thế giới tâm linh cũng vậy.
Bìa cuốn sách Con đường Hồi giáo
Nhưng khi niềm tin mất đi, đạo đức khủng hoảng, kinh tế khủng hoảng, người dân sẽ chỉ còn niềm tin và bấu víu vào thế giới tâm linh. Đáng buồn thay, đây không những là sự bấu víu mà còn là sự bóp méo thế giới tâm linh. Những kẻ suy kiệt niềm tin này không những tìm sự chở che ở thế giới thần thánh mà thậm chí còn cho rằng thần thánh có thể đút lót, tham nhũng bằng tiền.
Đó là sự bắt đầu của những hành động báng bổ thần thánh, bởi thần thánh lúc đó đã “mua” được. Chẳng hạn như những quan tham đi chùa cầu xin thần thánh ban phước cho những phi vụ làm ăn vô đạo.
Khi người ta tin rằng tôn giáo không còn chức năng trấn giữ đạo đức xã hội, thậm chí tôn giáo có thể “phản bội” các giá trị đạo đức, giúp đỡ kẻ ác kẻ tham, thì hẳn nhiên con người trở nên hoang mang, xã hội sẽ bấn loạn. Thần thánh trở thành âm binh, xấu tốt không còn phân biệt. Chung quy gốc rễ của vấn đề là sự khủng hoảng niềm tin.
Điều này có xảy ra ở những quốc gia khác, vùng tôn giáo khác?
Khi niềm tin bị mất đi là khi tôn giáo trở nên đắt hàng nhất. Đó không phải là quy luật nhưng xảy ra khá phổ biến ở một số quốc gia đang phát triển trên thế giới. Khi tôn giáo lên ngôi đó cũng là khi quyền lực lên ngôi. Mà quyền lực thì đương nhiên là có khả năng làm băng hoại con người.
Quyền lực tối thượng sẽ dẫn đến khả năng phá hủy tối đa.
(Còn nữa)
Hoàng Hường(Thực hiện)
Theo VNN
Gặp người mơ thấy rồng thần ở ngôi miếu thiêng nghe kể chuyện đi tìm kho báu
Chúng tôi được nghe truyền miệng về câu chuyện trên đã lâu, tò mò vì trong đó có "giấc mơ", có "rồng thần", có "lãnh địa thiêng" và đặc biệt là có "kho báu" nhưng mãi đến tận bây giờ mới có cơ hội được gặp đầy đủ những con người xuất hiện trong câu chuyện thần bí đó. Chuyện là có một ngôi miếu thiêng ở xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa - nơi mà các nghĩa sĩ Lam Sơn khi bị thương được đưa vào chữa trị; đây cũng là nơi đồn rằng có một kho báu và những câu chuyện kỳ bí...
Nhân chứng sống và cuộc di cư vào miếu thiêng
Ông Nguyễn Thanh Lâm, Phó Chủ tịch xã Ngọc Phụng cho biết, ngôi miếu nằm trên địa bàn xã, đã từng là nơi các tướng lĩnh, binh sĩ nghĩa quân Lam Sơn được đưa vào để chữa trị vết thương nên rất linh thiêng. Dân trong làng, ngoài xã sau khi chứng kiến nhiều việc kỳ lạ xảy ra xung quanh ngôi miếu thì chẳng còn ai dám "mạo phạm". Dẫn chúng tôi đến nhà ông Nguyễn Văn Chung, thôn Xuân Thắng, xã Ngọc Phụng, ông Nguyễn Thanh Lâm vừa đi vừa kể: "Về những câu chuyện ở ngôi miếu, ông Chung là người nắm rõ nhất. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, gia đình ông Chung lên làm kinh tế mới ở thôn Xuân Thắng, sau vì quá khó khăn, làm lụng mãi mà không cất nổi một căn nhà để ở nên gia đình ông Chung đã phải "xin" thần thánh cho ở nhờ, và sống gần 8 năm tại đây".
Ông Nguyễn Văn Chung có trí nhớ cực tốt, ông kể về câu chuyện thời thanh niên cách đây gần 45 năm mà cứ như mới xảy ra ngày hôm qua - "Ngày đó tôi mới chưa đến 20 tuổi thì gia đình chuyển đến xã Ngọc Phụng làm ở hợp tác xã chuyên trồng sắn. Lúc đó, làng Xuân Thắng đang được gọi là làng Phụng Dưỡng. Ở đó, chỉ có đồi sắn và rừng cây bạt ngàn, dân cư còn thưa thớt, mang tiếng là hàng xóm nhưng cách nhau cả cây số, mấy quả đồi. Thời gian trôi đi gia đình tôi với 7 người cứ lay lắt sống trong mái lều dựng tạm, ăn còn chẳng đủ no nói gì đến chuyện xây nhà, dựng cửa. Lúc đó, đã có người "gợi ý" với bố tôi rằng: "Hay là vào miếu hoang ở tạm". Thú thật ban đầu những câu chuyện truyền tai nhau về sự kỳ bí của ngôi miếu khiến bố tôi lo ngại. Nhưng suy đi tính lại bố tôi gọi cả nhà lại và nói: "Mình không có nhà, chắc phải ở nhờ ngôi miếu. Miếu là miếu thiêng, gia đình trước nay ăn ở hiền lành, chẳng làm hại ai, lại có lòng thành, nay khó khăn quá xin tạm lánh vào miếu ở nhờ chắc thần thánh không nỡ trách phạt"...
Giấc mơ rồng thần vào những đêm rằm
Xã Ngọc Phụng 40 năm trước rừng rậm bát ngát, nhà thưa người ít. Cuộc sống của người dân chỉ sớm khuya quanh quẩn với ruộng đồng. Vàng bạc, châu báu là những khái niệm xa xỉ, có tìm đỏ mắt khắp xã cũng chẳng có mấy người đã từng một lần được trông thấy vàng. Thế rồi, câu chuyện về kho báu bỗng dưng xuất hiện, nó kỳ lạ, bí hiểm và dần khiến cuộc sống của những người dân nghèo bị xáo trộn hoàn toàn. Nhắc lại câu chuyện đã qua gần nửa thế kỷ, ông Nguyễn Thanh Lâm cắt ngang: "Câu chuyện về kho báu như một kỷ niệm của thời xa vãng. Đến bây giờ trong ký ức của người dân thế hệ chúng tôi vẫn còn nhớ như in buổi chiều hè nắng như đổ lửa tháng 6-1972. Lúc đó tôi đang là cậu học sinh cấp 2 cũng hùa theo đám người nhốn nháo đi xem kho báu và trông thấy người ta nhặt được những chiếc đai quần, những miếng lá lấp loáng ánh vàng...". Cũng theo ông Lâm, chuyện về kho báu thật dài, nhưng phải kể đến giấc mơ kỳ lạ của ông Chung.
Trở lại câu chuyện của gia đình ông Chung, sau quyết định của bố, cả gia đình ông Chung vào miếu ở. Và cũng từ đó ông Chung đã gặp những câu chuyện kỳ lạ mà đến bây giờ ông vẫn không lý giải nổi. Ông Chung kể lại: "Trước đó, khoảng những năm 1970, 1971, gia đình tôi vẫn sống trong ngôi miếu thiêng. Điều nhớ nhất của tôi ở ngôi miếu thiêng có bức phù điêu 2 con rồng được đắp nổi trên bức tường ở một bên miếu. Hai con rồng được chạm đối diện nhau, có đầu hướng ra phía ngoài, nhìn về cùng một phía. Ban đầu, tôi chỉ ấn tượng với bức phù điêu đó vì nó được chạm khắc hết sức tinh xảo và đẹp mắt. Nhưng vào một đêm tôi mơ thấy một con rồng giống hệt con rồng trên bức tường. Con rồng tỏa ánh hào quang sáng rực, bay lượn trên các ngọn núi, nhìn về hướng ngôi miếu rồi bỗng chốc bay thẳng lên trời chìm vào làn mây trắng. Giấc mơ kỳ lạ đó đến với tôi rất nhiều lần. Ban đầu, tôi cho đó là chuyện bình thường và nghĩ rằng có mơ cũng chỉ vì thấy đôi rồng trên bức phù điêu thường xuyên nên bị ám ảnh. Nhưng tôi chợt nhận ra điều trùng hợp là con rồng đó chỉ xuất hiện trong giấc mơ của tôi vào những đêm rằm, trăng sáng vằng vặc".
Chỉ đường tìm kho báu
Theo lời kể của ông Chung thì như biết trước rằng "con rồng sẽ xuất hiện, sẽ bay lượn qua những ngọn núi" thì y như rằng vào một đêm rằm tháng 3-1972: "Tôi thấy mình xuất hiện trong giấc mơ, đôi mắt hướng về phía con rồng một cách hiếu kỳ. Con rồng bay lượn rồi bỗng dưng quay xuống, "hạ cánh" ngay trước mặt tôi. Chưa kịp hoảng hồn thì rồng thần đã cất giọng văng vẳng: Ta đang đưa mắt về hướng kho báu, ngươi cứ theo hướng nhìn của ta mà đi tìm... Vừa cất lời xong con rồng bay vút lên không trung biến mất trong làn mây. Tôi sững người bật dậy, mồ hôi vã đầm đìa và đi tìm cây đèn dầu rồi đi ra ngoài, màn đêm vẫn còn buông, trăng vẫn sáng rực khắp ngọn núi. Tôi tiến sát đến chỗ bức phù điêu hình rồng, đôi mắt hai con rồng hướng về phía chân đồi cách ngôi miếu khoảng 100m. Nhưng nơi đây chỉ là một bãi đất cây cối mọc um tùm không có gì nổi bật, tôi tạm quên "giấc mơ", "con rồng" rồi trở vào ngủ tiếp. Mấy ngày sau ý nghĩ về sự xuất hiện của "con rồng" cứ bám riết tâm trí và tôi đem câu chuyện kể với những người trong gia đình, người thân quen trong làng nhưng đều bị phản bác rằng: Đó chỉ là giấc mơ!...
Rồi cuộc sống khó khăn, nai lưng sớm khuya với đồng ruộng, củ khoai, củ sắn đã nhấn chìm giấc mơ nhuốm màu sắc tâm linh "rồng thần hiển linh chỉ đường tìm kho báu" trong suy nghĩ của ông Chung. Nhưng rồi một sự kiện đã làm thay đổi tất cả, ông Chung kể tiếp: "Một sự việc có thật, tai nghe, mắt chứng kiến đã khiến nhiều người trong làng xôn xao. Đó là tháng 6-1972, chỉ cách giấc mơ "rồng thần hiển linh chỉ đường tìm kho báu" của tôi đúng 3 tháng đã xảy ra một chuyện là con đập bãi sậy cung cấp nước tưới tiêu cho toàn xã bị sập, chính quyền phải điều máy ủi, máy kéo đến để lấy đất ở nơi khác về đắp đập - đó cũng chính là điểm con rồng chỉ hướng cho tôi trong giấc mơ - và cũng chính chỗ đó kho báu được tìm thấy".
Thực hư về kho báu?
..."Thì phải tìm gặp ông Trần Đa Lộc, Bí thư thị trấn Thường Xuân" - ông Nguyễn Thanh Lâm cho chúng tôi biết. Theo ông Lâm thì sở dĩ ông Lộc biết vì ngày đó ông Lộc là một trong những người may mắn đào được vàng. Ông Trần Đa Lộc nhớ lại: "Lúc đó tầm 3 giờ chiều, trời nắng chang chang, những con gió Lào thổi về nóng như đổ lửa, đồng ngô khô xác xơ. Khi ấy khu đất có con đập bị sập đã bị máy xúc, máy ủi cào sạch đất trên bề mặt chỉ còn trơ lại lớp đất đen lồi lõm. Là cậu học sinh cấp 2 đang trên đường đi làm cỏ ngô thì thấy nhiều người trong xã đang cầm cuốc chạy về phía con đập; hỏi ra mới biết mọi người đang đi đào kho báu. Nhỏ tuổi nên tò mò, tôi cùng chạy theo để xem thì thấy người cuốc, người đào sâu xuống lớp đất nhưng chẳng thấy dấu tích gì thì mọi người lần lượt bỏ về. Duy nhất lúc đó chỉ còn mỗi một người vẫn tiếp tục đào thì tôi dành cuốc và bảo: "Để cháu đào cho". Đào thêm thì chúng tôi thấy hết lớp đất và trơ ra lớp vôi và than cục, tiếp tục đào thì phát hiện thấy vài lá kim loại màu vàng mỏng có khắc hoa văn hình hạc, rồng hơi xỉn màu to bằng bàn tay. Lúc đó trong lòng chúng tôi mừng thầm vì nghĩ đã tìm thấy kho báu thế là hùng hục đào tiếp thì thấy nhiều hơn những tấm lá vàng xếp sát nhau.
Chuyện 2 người, 1 già 1 trẻ chúng tôi đào được những lá vàng được nhanh chóng lan truyền trong ngôi làng nhỏ bé và chỉ trong 1 buổi chiều khu đất đã bị xới tan hoang. Đến khi nhiều người nhặt được vàng lá, vàng thỏi, hạt xoàn, chiếc đai quần và những tấm vải thêu đính đá quý... thì chính quyền địa phương đến quây lại khu đất không cho người dân vào trong. Lúc này tôi chỉ còn biết đứng ngoài khu đất để xem thì thấy họ đào được 3 cái am rộng chừng 20m2 hướng về phía Đông. Dưới mỗi cái am là một lớp than dày khoảng 40cm. Nhiều lời đồn đoán rằng đây là khu mộ cổ nên tôi thấy người ta không đào nữa. Và theo nhiều người lớn trong làng kể lại thì sau đó dù tiếp tục đào nhưng không còn thu được gì. Ngày hôm sau người dân trong xã nhận được thông báo những ai nhặt được vàng thì phải lên nộp cho chính quyền vì đó là tài sản của Nhà nước. Tôi cùng nhiều người khác đã mang vàng lên nộp"...
Câu chuyện đổi đời và tai ương
Ông Lộc kể rằng nhiều người đã mang vàng nên nộp nhưng chắc chắn là vẫn còn những người không nộp hết. Bởi như chính ông còn giữ lại đủ để mua chiếc đài radio hết 8 chỉ vàng, 1 chiếc xe đạp Liên Xô gần 1 cây vàng. Ông Lộc bảo trong những người nhặt được vàng ngày hôm đó đến nay còn sống có ông Nguyễn Đình Sự. Năm nay cũng đã ngoài 80 tuổi, trong căn nhà tuềnh toàng, ông Sự nhớ lại: "Hôm đó tin tìm thấy kho báu loan truyền rất nhanh, với giấc mơ tìm vận đổi đời tôi cùng 2 thằng con trai cũng chạy thục mạng ra khu đất con đập bãi sậy thì nhặt được một ít hạt xoàn và vàng. Ban đầu, nhiều người mang vàng về nhà thì sợ sệt vì cho rằng kho báu có yểm bùa thì sớm muộn gì cũng mất và gặp phải những tai ương nhưng may mắn là không có chuyện gì không may ập đến trừ trường hợp...". Theo ông Sự thì đó là câu chuyện của ông Nguyễn Viết Hậu. Không đi nhặt vàng như hầu hết mọi người, không biết nghe đâu mà ông Hậu lại phá 2 bức tượng ở trong ngôi miếu mà gia đình ông Chung ở để tìm vàng. Không biết ông Hậu có tìm thấy vàng hay không nhưng đang từ một nông dân nghèo ông Hậu bỗng dưng... đổi đời bằng việc xây nhà ngang, bếp dọc, tiêu pha rủng rỉnh. Đến giờ người ta vẫn đồn về việc nhà ông Hậu bị dính tai ương khi con cái ốm đau, tài sản dần tiêu tan phải bán nhà bỏ đi nơi khác sinh sống!...
Trong khi kể câu chuyện về "giấc mơ", "kho báu" với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Chung vẫn tỏ ra hối tiếc vì "biết đâu đấy sẽ đổi đời". Suy nghĩ của ông Chung không lạ; bởi đến nay có bao nhiêu truyền thuyết về những kho báu của người xưa thì có rất nhiều người đã lao vào cuộc tìm kiếm không có điểm dừng. Luôn tin chắc kho báu là có thật, họ sẵn sàng đổ hết cả của cải, thời gian để đào xới lòng đất, lòng biển mà kết quả nhìn thấy là nhiều gia đình tan nát, bỏ phí cả cuộc đời để theo đuổi một giấc mộng viển vông không có hồi kết.
Theo ANTD
Vì sao ngôi chùa nằm trên xương con rồng phải đổi cổng tới 3 lần? Nằm trên đỉnh ngọn núi có địa hình rất đẹp, ngôi chùa cổ Long Cốt Tự từng là một ngôi chùa to nhất nhì xứ Kinh Bắc ngày xưa, đã tồn tại đến vài trăm năm tuổi, được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Ngôi chùa tuy đã bị phá hủy chỉ còn lại một số...