Vì sao Trung Quốc tuyên bố ngừng bồi đắp đảo ở Biển Đông?
Cách tiếp cận của Trung Quốc thường dịch chuyển theo vòng tròn, từ kiên quyết đòi hỏi chủ quyền đến làm an lòng đối tác, trước khi về lại với các yêu sách. Bắc Kinh thường cố cân bằng hai yếu tố trên.
Hình ảnh vệ tinh cho thấy nhiều tàu Trung Quốc đang nạo hút cát tại đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam (Ảnh: AFP)
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng ngày 16/6 tuyên bố việc bồi đắp các đảo ở Biển Đông sẽ sớm kết thúc. “Theo như kế hoạch, dự án cải tạo đất các công trình xây dựng của Trung Quốc trên một số đảo và đá ngầm thuộc quần đảo Nam Sa (tên Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam) sẽ hoàn tất trong những ngày tới.”
Trung Quốc có động thái này sau khi Mỹ tiếp tục gây sức ép yêu cầu dừng các dự án xây dựng ở Biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter mới đây đã nhấn mạnh trong phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore: “Các bên cần dừng ngay lập tức và lâu dài việc cải tạo đất.”
Tuy nhiên phía Trung Quốc vẫn không chấp thuận. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Xuân Oánh sau đó biện bạch rằng: “Việc xây dựng của Trung Quốc trên một số bãi đá thuộc quần đảo Nam Sa (tên Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam) là hoàn toàn thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Việc đó hoàn toàn hợp pháp, hợp lý, đúng đắn, không ảnh hưởng và nhằm vào bất kỳ nước nào khác.”
Chính quyền Bắc Kinh thể hiện rõ ràng rằng họ không nhân nhượng trước sức ép từ bất kỳ nước “có tranh chấp” nào từ ASEAN, hoặc kể cả Mỹ.
Người phát ngôn Lục Khảng cũng bảo vệ việc cải tạo đất theo đúng “kiểu Trung Quốc”, bằng cách lớn tiếng đòi chủ quyền với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Theo lý lẽ của ông Lục, “chủ quyền” nêu trên gắn với việc xây dựng trên các bãi đá Trường Sa, và rằng việc bồi đắp của Trung Quốc không nhằm vào bất kỳ nước nào và không ảnh hưởng đến tự do hàng hải hoặc hàng không tại đây (?)
Ông Lục còn ngang ngược nói thêm rằng việc nâng cấp các cơ sở hiện có chủ yếu nhằm vào mục đích dân sự, bao gồm nghiên cứu đại dương, tìm kiếm cứu hộ và an ninh hàng hải. Và việc xây dựng sẽ kết thúc vì nó sẽ “hoàn thành”, chứ không phải vì Trung Quốc từ bỏ dự án (?)
Lý do Bắc Kinh tuyên bố ngừng bồi đắp
Video đang HOT
Hình ảnh cho thấy Trung Quốc bồi đắp trái phép đá Chữ Thập của Việt Nam. (Ảnh: Rappler)
Có nhiều lý do giải thích tại sao Trung Quốc tuyên bố ngừng cải tạo dù có thể chỉ là tạm hoãn dự án vào thời điểm này.
Lý do đầu tiên có thể là vì đã bắt đầu mùa mưa bão ở Biển Đông, vì vấn đề hậu cần nên Bắc Kinh muốn việc xây cất hoàn thành sớm trong mùa hè để tránh những cơn bão lớn.
Cũng có yếu tố chính trị khiến tuyên bố ngừng xây dựng này có vai trò quan trọng. Vụ kiện ra tòa án quốc tế của Philippines liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông sẽ bắt đầu phiên tranh tụng trong tháng tới. Cho dù Trung Quốc khăng khăng từ chối tham gia và phủ nhận mọi phán quyết có thể của tòa án, thì Bắc Kinh vẫn thấy cần thận trọng, tránh bước đi khiêu khích trong lúc tòa đang phán quyết đơn kiện của Manila.
Thêm nữa, quan hệ Trung – Mỹ đã phát triển mạnh hơn nhờ phần lớn ở vấn đề Biển Đông. Trong chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Mỹ vào tháng 9 tới đây, hai bên chắc chắn sẽ cần những động lực tích cực, mà tốt nhất là trước phiên Đối thoại Kinh tế và Chiến lược tổ chức cuối tháng này ở Washington D.C.
Về trung hạn, Mỹ sẽ sớm bước vào bầu cử Tổng thống năm 2016 và Trung Quốc hẳn là không muốn hành động của mình ở Biển Đông sẽ trở thành điểm chính trong tranh luận của các ứng cử viên. Về hình thức, Trung Quốc vẫn kiên quyết cho rằng sức ép của Mỹ không ảnh hưởng gì đến quyết định của Bắc Kinh, nhưng phát biểu lo ngại của các quan chức Nhà Trắng cũng khiến mọi người hoài nghi liệu Bắc Kinh có thể sẽ tiếp tục vô thời hạn các dự án của họ?
Xét theo quan điểm chung nhất là Trung Quốc có thể quyết định rằng việc chấm dứt bồi đắp đảo là phù hợp với lợi ích chính sách đối ngoại của nước này. Khi các dự án hoàn thành, Bắc Kinh sẽ chuyển sang kiểm soát rủi ro trong quan hệ với các nước Đông Nam Á. Mối quan hệ này là rất quan trọng để thúc đẩy chiến lược chính sách đối ngoại vòng cung của Trung Quốc, Vành đai kinh tế Con đường Tơ lụa và Con đường Tơ lụa trên biển.
Học giả Trung Quốc Xue Li mới đây đã giải thích: “Để thực hiện chiến lược OBOR (Một vành đai, một con đường), không chắc Trung Quốc có thể tránh được các vấn đề nổi lên do tranh chấp. Như vậy, điều cần thiết với Bắc Kinh là điều chỉnh chính sách và chiến lược Biển Đông của mình.”
Công khai tuyên bố kết thúc cải tạo đất giống như “cành ô liu”… tặng cho ASEAN, mở hy vọng tham gia vào dự án “Vành đai và Con đường.”
Bản chất không thay đổi
Cần nói rõ là sau khi việc cải tạo hoàn tất (dù Bắc Kinh chưa nêu đích xác thời hạn), thì Trung Quốc đã có chính xác những gì nước này muốn là xây dựng nhà hoặc cơ sở đã được nâng cấp tại các đảo nhân tạo, giúp củng cố năng lực của Bắc Kinh để vận hành hoạt động tại Biển Đông.
Vụ giàn khoan HD-981 năm 2014 là một ví dục điển hình cho chiến lược trên. Trung Quốc chỉ rút giàn khoan sau khi nó đã hoàn thành công việc và đạt đến thời hạn nước này chỉ định. Bắc Kinh đã chấp chới đi giữa ranh giới mà không làm đổ vỡ các mối quan hệ.
Điều này có nghĩa cách tiếp cận của Trung Quốc thường dịch chuyển theo vòng tròn, từ kiên quyết đòi hỏi chủ quyền đến làm an lòng đối tác trước khi về lại với các yêu sách. Bắc Kinh thường cố cân bằng hai yếu tố trên.
Nếu đúng thì dường như chính sách của Bắc Kinh đang đến chu kỳ “làm an lòng”, mà lần gần đây nhất là vào năm 2013 khi ông Tập Cận Bình lần đầu nói về Con đường Tơ lụa trên biển.
Tuy nhiên, khi các mối quan hệ trong khu vực đủ ổn định, Bắc Kinh có thể lại quyết định rằng các căn cứ quân sự cần được nâng cấp và lại bắt đầu vòng tròn chính sách mới (?)
Hoài My
Theo Dantri/Diplomat
Vì sao Trung Quốc "quân sự hóa" Biển Đông?
Cách tiếp cận "quân sự hóa" Biển Đông trong tranh chấp lãnh thổ phản ánh sự thiếu hiểu biết về quân sự của "siêu cường khu vực" Trung Quốc.
Đó là nhận xét của Giáo sư Tiến sĩ Sukjoon Yoon - nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Chiến lược hàng hải của Hàn Quốc và là giáo sư thỉnh giảng tại Khoa Kỹ thuật hệ thống quốc phòng của Đại học Sejong ở thủ đô Seoul.
Trung Quốc từng đưa tàu sân bay Liêu Ninh thị uy ở Biển Đông.
Theo Giáo sư Tiến sĩ Sukjoon Yoon, trong khi đề ra sáng kiến "Con đường tơ lụa trên biển", Trung Quốc đang ráo riết tiến hành các hoạt động nạo vét "đắp đảo nhân tạo" ở 7 rạn san hô và bãi cát ngầm đang tranh chấp ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông. Bắc Kinh cũng đang xây dựng các căn cứ hải quân-không quân trên những "hòn đảo" mới được bồi đắp trái phép này. Đó là các cầu cảng, đường băng sân bay dài 3.000 mét, căn cứ của các đơn vị đồn trú được trang bị radar và trọng pháo bảo vệ bờ biển.
Chiến lược hải quân lỗi thời
Liệu hành động "quân sự hóa" Biển Đông này có thực sự giúp Trung Quốc trở thành một "cường quốc hải quân thực sự" như những lời hô hào của Chủ tịch Tập Cận Bình?
Biển Đông là nơi qua lại của 1/3 tổng số tàu thương mại trên thế giới và có trữ lượng dầu khí khá dồi dào. Do đó, Biển Đông có ý nghĩa quan trọng về địa chiến lược và kinh tế. Trong những tháng gần đây, căng thẳng ngày càng tăng giữa Trung Quốc và một số nước thành viên ASEAN liên quan đến việc Trung Quốc bồi đắp các rạn san hô thành đảo lớn. Trước hành động quyết đoán ngang ngược của Trung Quốc nhằm thống trị toàn bộ Biển Đông, tất cả các quốc gia Đông Nam Á - đặc biệt là các nước có yêu sách lãnh thổ tranh chấp của Trung Quốc - đều tăng cường lực lượng hải quân.
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) và Hải quân Trung Quốc (PLAN) dường như đã bỏ qua thực tiễn chiến tranh hải quân hiện đại vốn dựa vào lực lượng hải quân viễn chinh thường trực trên biển và sẵn sàng đi tới các điểm nóng trên thế giới.
Thực ra, Hải quân Trung Quốc đang nỗ lực trở thành lực lượng hải quân hiện đại, có khả năng hoạt động ở những vùng biển xa. Hải quân Trung Quốc đã có trong tay một tàu sân bay, nhiều tàu khu trục thế hệ mới và nhiều tên lửa hiện đại.
Hải quân Trung Quốc cũng tăng cường mở rộng lực lượng tàu ngầm của mình và triển khai một đơn vị đặc nhiệm ở Ấn Độ Dương.Mạng Defence News của Mỹ đưa tin Hải quân Trung Quốc đang xem xét tính khả thi của việc thành lập một hạm đội thứ tư ở Ấn Độ Dương. Đó là chưa kể Cảnh sát biển Trung Quốc được coi là "hải quân thứ hai", một lực lượng liều lĩnh đã dùng vòi rồng tấn công và đâm vào các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam, khi các tàu này cố ngăn chặn Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng biển Việt Nam.
Nhưng việc Trung Quốc quân sự hóa các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam) ở Biển Đông, triển khai các đơn vị đồn trú, xây dựng cảnh biển, đường băng trên các hòn đảo mới đắp,... xem ra không có gì liên quan đến tham vọng biển xa của Hải quân Trung Quốc.
"Lợi bất cập hại"
Biển Đông có điều kiện thời tiết tương đối khắc nghiệt và việc tiến hành tuần tra hải quân trong mọi điều kiện thời tiết là khá khó khăn. Nếu không được xây dựng với quy mô rất lớn, cầu tàu bến đậu của những hòn đảo nhân tạo sẽ không đủ sức bảo vệ tàu đánh cá trước các cơn bão thường xuyên.
Việc Không quân Trung Quốc vận hành máy bay chiến đấu Su-27SKs trên các hòn đảo nhân tạo cũng không mấy dễ dàng. Điều này đòi hỏi năng lực hậu cần, bảo dưỡng tiên tiến và đội ngũ phi công lão luyện. Hơn nữa, những chiếc Su-27SK được triển khai trên "đảo nhân tạo" dễ bị vệ tinh phát hiện bởi và dễ bị các máy bay không người lái tầm xa tấn công.
Việc quân sự hóa Biển Đông chính là một sự lựa chọn chính trị sai lầm của Trung Quốc, chứ không phải là một biểu hiện linh hoạt của quân đội.
Trong hơn 10 năm qua, quá trình hiện đại hóa Hải quân Trung Quốc thường đi kèm với các hành động hung hăng quyết đoán. Điều này đã khiến cho các nước ASEAN láng giềng cảm thấy lo ngại và phát đi các tín hiệu sai lầm đến Nhật Bản và Mỹ. Đây không phải là cách để Trung Quốc trở thành một cường quốc hàng hải đích thực.
Rõ ràng, Mỹ coi Trung Quốc là một mối đe dọa lớn và nước này chuyển giao nhiều tàu hải quân và tàu bảo vệ bờ biển cũ cho các lực lượng hải quân ASEAN. Tư lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ đã lên tiếng ủng hộ các cuộc tuần tra chung Mỹ-ASEAN trên Biển Đông. Trong khi đó, các nước ASEAN cũng ráo riết tăng cường sức mạnh cho lực lượng hải quân: nâng cấp các căn cứ, mua tàu chiến tàu ngầm và vũ khí tiên tiến của nước ngoài.Trong suốt bề dày lịch sử, hầu hết các cường quốc hàng hải muốn thống trị các vùng biển của họ để bảo vệ lợi ích thương mại quốc gia đều phải đối mặt với thâm hụt nghiêm trọng các nguồn lực tài chính và quân sự.
Theo Giáo sư Tiến sĩ Sukjoon Yoon, tranh chấp Biển Đông đang cản trở con đường trở thành "cường quốc hải quân" của Trung Quốc và ý đồ "quân sự hóa" Biển Đông không mang lại kết quả tích cực nào cho nước này. Trung Quốc chỉ có thể trở thành một "cường quốc hải quân" thực sự, nếu biết cách điều chỉnh tư duy chiến lược lỗi thời, cả trong quân đội lẫn trong giới lãnh đạo chính trị.
Minh Châu (Theo RSIS)
Theo kienthuc
Mỹ xem xét lại cách tiếp cận đối với tiến trình đàm phán Trung Đông Chính phủ Mỹ vừa đề nghị xem xét lại cách tiếp cận đối với tiến trình đàm phán hòa bình ở Trung Đông sau khi Thủ tướng Benjamin Netanyahu đưa ra lập trường hoàn trái ngược với ý tưởng về một giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine. Thư ký Báo chí Nhà Trắng, Josh Earnest trả...