Vì sao khoa học tranh cãi về COVID-19 và trộn vắc xin?
Các nhà khoa học của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) không đồng ý trộn hai loại vắc xin COVID-19 khác nhau.
Nhưng vẫn là khoa học, tại châu Âu và Canada, họ cho rằng đây là cách hiệu quả phòng COVID-19.
Một người phụ nữ tiêm vắc xin COVID-19 của Hãng Pfizer – Ảnh: AFP
Thủ tướng Đức Angela Merkel, Thủ tướng Canada Justin Trudeau, và Thủ tướng Ý Mario Draghi là những người đi đầu trong việc tiêm kết hợp hai loại vắc xin khác nhau.
Sau khi cùng tiêm AstraZeneca trong mũi đầu tiên, bà Merkel và ông Trudeau tiêm mũi thứ hai bằng Moderna, còn ông Draghi chọn Pfizer.
WHO chưa “duyệt”
WHO đến nay chưa khuyến nghị cách kết hợp vắc xin này. Tuy nhiên cách sử dụng thuốc ngoài hướng dẫn (“off-label”) này đang thịnh hành ở Canada và 15 quốc gia châu Âu, cũng như bắt đầu thu hút chú ý ở Mỹ.
Cũng như châu Âu, người Mỹ hiện lo lắng về hiệu quả của việc dùng một loại vắc xin (như Johnson & Johnson) để ngừa biến chủng Delta.
Câu hỏi đặt ra là liệu cách tiếp cận này có an toàn và hiệu quả không? Còn câu trả lời dường như là… không biết.
Nếu cho rằng “khoa học” là chân lý, còn các “nhà khoa học” là người truyền đạt chân lý, vậy ở đây sẽ có hơn một chân lý, và có các nhóm truyền đạt chân lý khác nhau.
Hôm 22-7, Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật châu Âu (ECDC) công bố báo cáo gây tranh cãi. Trong đó cho rằng việc trộn các loại vắc xin có thể tạo ra “phản ứng miễn dịch mạnh mẽ” ngừa COVID-19.
Báo cáo dẫn bằng chứng từ nghiên cứu về việc trộn vắc xin cho thấy việc kết hợp AstraZeneca (công nghệ vector virus) và các loại vắc xin công nghệ RNA thông tin (mRNA) tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh mẽ chống lại virus SARS-CoV-2, và tạo ra phản ứng tế bào T cao hơn so với một loại vắc xin.
Video đang HOT
Chuyên gia chính sách về bệnh truyền nhiễm của ECDC, ông Karam Adel Ali, khẳng định có phản ứng miễn dịch tốt xuất hiện trong các dạng tiêm kết hợp như trên.
Ông này cho biết dù việc tiêm kết hợp có sinh ra thêm một số phản ứng phụ, song nhìn chung quy trình trộn và kết hợp này được dung nạp tốt.
Cũng theo báo cáo trên, một số nghiên cứu khác gần đây cũng như Chính phủ Đức cho rằng “combo” hai liều vắc xin COVID-19 khác nhau có thể tạo miễn dịch mạnh mẽ hơn so với một loại.
Ví dụ khi chỉ dùng 2 liều cùng loại AstraZeneca, nghiên cứu của họ thấy ít hiệu quả hơn các loại vắc xin mRNA trong việc chống biến chủng Delta và Beta.
Các nhà khoa học Anh cho rằng những người từng bị cảm lạnh có thể có khả năng chống chọi SARS-CoV-2 tốt hơn – Hình (minh họa): MOGILEV
“Chưa đủ bằng chứng”
Nhưng ở chiều ngược lại, một số nhà khoa học khác bày tỏ lo ngại về cách tiếp cận này.
Ông Daniel Lopez-Acuna, cựu giám đốc về xử lý khủng hoảng của WHO, đồng ý với quan điểm cho rằng “có quá ít bằng chứng cho thấy liệu trộn vắc xin có hợp lý hay không”.
Ông nói: “Chúng ta cần chấp nhận rằng mình đang ở một vùng xám, nhìn từ góc độ bằng chứng cần thiết để đưa ra một quyết định đúng đắn”.
Còn trong giới khoa học, TS Eric Feigl-Ding, nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Hiệp hội Các nhà khoa học Mỹ (Federation of American Scientists), khẳng định với Yahoo News rằng chúng ta đang chìm trong một… màn sương mờ.
Phía WHO – cơ quan khuyến cáo nên dùng cùng một loại vắc xin cho cả hai liều, TS Soumya Swaminathan bày tỏ lo lắng.
Bà cho rằng có một xu hướng khá nguy hiểm khi mọi người đang không nắm dữ liệu trong tay, không có bằng chứng nào về việc trộn và kết hợp vắc xin.
Nhìn chung, điểm mấu chốt xuất hiện trong mọi tranh luận khoa học dạng này nằm ở “bằng chứng”.
Các nhà khoa học luôn thận trọng khi đưa ra đánh giá về một vấn đề chuyên môn. Sự phản bác của họ dành cho các nghiên cứu hay thực tiễn mới, trên thực tế dừng lại ở mức độ “chưa biết thì chưa dám nói”, chứ không hẳn khẳng định nghiên cứu và thực tiễn đó đúng hay sai. Vì vậy cụm từ “chưa có bằng chứng…” trở thành câu cửa miệng.
Richard Carpiano, giáo sư về chính sách công tại ĐH California (University of California, Riverside), phân tích với Yahoo News về sự thiếu chắc chắn có thể bị hiểu nhầm thành mong manh, mông lung.
“Chúng ta tìm tới các nhà khoa học, chuyên gia lâm sàng để có câu trả lời dứt khoát. Nhưng đây lại không phải cách mà khoa học bình thường vẫn hoạt động. Vì tình hình phát triển liên tục trong một loại virus mà chúng ta hiểu rất ít về nó chỉ một năm trước đây, cộng đồng khoa học đang vận động nhanh chóng để tìm hiểu nó, và các hướng dẫn ban hành thường xuyên được cập nhật. Đây thực sự là cách khoa học đang hoạt động như nó vốn phải thế”.
Tuy nhiên, đối với phần đông công chúng, việc cập nhật liên tục này có nguy cơ bị xem là các nhà khoa học, các quan chức y tế không hiểu họ đang làm gì”, ông nói.
Mô hình tiêm chủng kết hợp vaccine ngừa COVID-19
Trong nỗ lực đẩy nhanh chiến dịch tiêm chủng vaccine ngừa COVID-19, một số quốc gia đang từng bước cho phép tiêm mũi thứ hai bằng loại vaccine khác với mũi đầu tiên.
Thủ tướng Đức Angela Merkel đã được tiêm mũi 2 bằng vaccine của hãng Moderna. Ảnh: AFP/TTXVN
Lãnh đạo một số nước cũng đã được tiêm chủng theo mô hình kết hợp này, trong đó Thủ tướng Đức Angela Merkel vừa được tiêm mũi 2 bằng vaccine của hãng Moderna, hay Thủ tướng Italy Mario Draghi tiêm vaccine của Pfizer/BioNTech, sau khi tiêm mũi 1 là vaccine của hãng Astra Zeneca.
Sự thay đổi này được thực hiện sau khi một số nhà khoa học cho rằng việc tiêm kết hợp hai loại vaccine như vậy có thể nâng cao hiệu quả trong cuộc chiến chống đại dịch. Một số quốc gia đã lựa chọn hình thức kết hợp khi nguồn cung của một loại vaccine cụ thể bị cạn kiệt, trong khi loại khác lại có sẵn; hoặc loại vaccine đầu tiên không đem lại hiệu quả cao; hoặc do thận trọng, cân nhắc tới yếu tố an toàn khi một số loại vaccine gây ra phản ứng không mong muốn ở những người đã tiêm liều đầu tiên. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các biến thể mới của virus SARS-CoV-2 cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu buộc các nước phải cân nhắc tiêm kết hợp các loại vaccine khác nhau.
Từ lâu, các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết rằng việc tiêm hai loại vaccine khác nhau có thể tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh hơn, do vaccine kích thích các khu vực khác nhau của hệ thống miễn dịch hoặc "huấn luyện" nó nhận ra các phần khác nhau của mầm bệnh xâm nhập. Các nhà khoa học gọi đây là "tăng nguyên tố dị hợp". Đây không phải là ý tưởng mới, các nhà nghiên cứu cũng đã thử nghiệm phương pháp này trong cuộc chiến chống lại một số bệnh khác, như dịch Ebola.
Một cụ bà được tiêm vaccine ngừa COVID-19 của Pfizer/BioNTech tại Haxby, Anh. Ảnh: AFP/TTXVN
Giới chuyên gia cũng cho biết việc kết hợp vaccine COVID-19 không chỉ là sử dụng vaccine do hai hãng khác nhau sản xuất, mà còn là phối hợp hai cách kích hoạt phản ứng miễn dịch khác nhau, do công nghệ bào chế vaccine khác nhau. Chẳng hạn, vaccine của Pfizer và Moderna sử dụng công nghệ mRNA. Đa số các loại vaccine COVID-19 còn lại được phát triển dựa trên công nghệ viral vector (như vaccine Sutnik V, vaccine của AstraZeneca hay Johnson&Johnson), có loại vaccine lại dựa trên protein. Theo các nhà khoa học, việc kết hợp các loại vaccine có công nghệ phát triển khác nhau có thể "kích hoạt" những khả năng khác nhau của hệ miễn dịch, từ đó bảo vệ cơ thể tốt hơn và tăng khả năng chống lại các biến thể.
Chuyên gia Dipyaman Ganguly thuộc Viện Sinh hóa Ấn Độ tin rằng việc kết hợp 2 loại vaccine "có thể trở thành một lá chắn tốt hơn" chống lại các thể virus đột biến. Trong tương lai, cách tiếp cận này có thể dẫn đến sự ra đời của các dòng vaccine "đa năng", đủ sức bảo vệ con người trước những biến thể khác nhau.
Trong khi đó, chuyên gia Zhou Xing, nhà miễn dịch học tại Đại học McMaster ở Canada, nhấn mạnh ngoài những lợi ích tiềm năng về miễn dịch học, việc kết hợp hai loại vaccine gần giống nhau cũng "mang lại sự linh hoạt cần thiết khi nguồn cung cấp vaccine không đồng đều hoặc hạn chế".
Tiêm chủng vaccine phòng COVID-19 tại Sydney, Australia. Ảnh: AFP/TTXVN
Từ tháng 2/2021, nhóm các nhà nghiên cứu vaccine của Đại học Oxford (Anh) đã bắt đầu thực hiện thử nghiệm, theo đó các tình nguyện viên được tiêm mũi thứ nhất vaccine của AstraZeneca và mũi thứ hai của Pfizer nhằm xác định mức độ an toàn và hiệu quả của việc tiêm kết hợp vaccine. Từ tháng 4, thêm vaccine của Moderna và Novavax cũng được đưa vào nghiên cứu. Chủ nhiệm công trình nghiên cứu này, Phó Giáo sư về nhi khoa và tiêm chủng tại Đại học Oxford Matthew Snape cho biết trọng tâm của nghiên cứu là tìm hiểu xem các loại vaccine phòng COVID-19 sẵn có liệu có thể được sử dụng một cách linh hoạt hơn, kết hợp hai loại vaccine khác nhau cho 2 mũi tiêm, hay không. Dữ liệu sơ bộ từ nghiên cứu này cho thấy người được tiêm 2 loại vaccine khác nhau có khả năng cao xuất hiện phản ứng phụ ở mức độ nhẹ hoặc trung bình, bao gồm sốt, mệt mỏi và đau đầu, so với nhóm tiêm đủ liều của một loại vaccine. Các nhà nghiên cứu cho rằng các tác dụng phụ có thể là dấu hiệu của phản ứng miễn dịch mạnh và hầu hết các tác dụng phụ đều biến mất trong vòng 48 giờ. Tuy nhiên, chế độ điều trị không phù hợp sau khi tiêm có thể dẫn tới một số bất lợi ngắn hạn.
Phó Giáo sư Matthew Snape kỳ vọng nếu nghiên cứu có thể chứng minh rằng việc tiêm chủng kết hợp này tạo ra phản ứng miễn dịch tốt như việc tiêm chủng tiêu chuẩn và không làm tăng đáng kể các phản ứng đối với vaccine, sẽ có nhiều người hoàn thành kế hoạch tiêm chủng phòng COVID-19 sớm hơn. Điều này cũng sẽ hỗ trợ hệ thống y tế ứng phó trong trường hợp thiếu hụt bất kỳ loại vaccine đang được sử dụng.
Ngoài nghiên cứu tại Anh, các nhà nghiên cứu Nga cũng đang thử nghiệm kết hợp giữa vaccine Sputnik V và sản phẩm của AstraZeneca. Hầu hết các nghiên cứu vẫn đang ở giai đoạn đầu, nhưng một số đã đưa ra kết quả sơ bộ đầy hứa hẹn. Một nghiên cứu của Viện Y tế Carlos III (Tây Ban Nha) công bố tháng trước cho thấy những người được tiêm vaccine của AstraZeneca mũi đầu và vaccine của Pfizer mũi thứ hai có kháng thể chống virus SARS-CoV2 tốt hơn (gấp 7 lần) những người chỉ tiêm vacccine của AstraZeneca. Hiện Tây Ban Nha đã cho phép những người dưới 60 tuổi tiêm kết hợp hai loại vaccine này.
Tiêm vaccine ngừa COVID-19 của AstraZeneca cho người dân tại Bremen, Đức. Ảnh: AFP/TTXVN
Một số quốc gia châu Âu như Đức, Thụy Điển, Pháp, Tây Ban Nha và Italy cho phép những người tiêm một liều vaccine của AstraZeneca có thể tiêm mũi 2 bằng một loại vaccine khác, đặc biệt trong trường hợp có liên quan đến chứng rối loạn đông máu hiếm gặp. Hiện Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) cho phép kết hợp 2 liều vaccine của hãng Pfizer và Moderna trong những tình huống đặc biệt, chẳng hạn như khi thiếu vaccine hoặc người được tiêm không rõ nguồn gốc của mũi tiêm đầu. Từ đầu tháng 6, nước này cũng triển khai cuộc thử nghiệm lâm sàng tiêm liều tăng cường bằng vaccine khác cho người trưởng thành và đang chờ kết quả. Canada khuyến nghị các tỉnh bang nên tiêm vaccine khác (của Pfizer/BioNTech hoặc Moderna) cho liều thứ hai nếu mũi đầu là vaccine của AstraZeneca.
Tại châu Á, để đối phó với việc chậm giao vaccine của AstraZeneca, Hàn Quốc tuần trước đã thông báo rằng các nhân viên y tế đã tiêm liều đầu tiên của loại vaccine đó có thể nhận mũi thứ hai là của hãng Pfizer. Ấn Độ, Malaysia cũng cân nhắc áp dụng biện pháp tương tự.
Trung Quốc cũng đang xem xét tiêm kết hợp các loại vaccine khác nhau để cải thiện hiệu quả của vaccine được sản xuất trong nước. Giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Trung Quốc Cao Phúc cho rằng một lựa chọn khác để khắc phục vấn đề hiệu quả là đan xen sử dụng các liều vaccine ứng dụng công nghệ khác nhau. Đây cũng là lựa chọn mà các chuyên gia y tế nước ngoài đang nghiên cứu.
Nhân viên y tế tiêm vaccine phòng COVID-19 cho người dân tại Cailungo, San Marino, Italy. Ảnh: AFP/TTXVN
Bên cạnh việc tiêm 2 loại vaccine khác nhau, một số nước, trong đó có Thái Lan và Chile, cũng đang cân nhắc tiêm liều tăng cường cho những người đã đủ 2 mũi vaccine để nâng cao khả năng miễn dịch nhằm đối phó với các biến thể mới của virus. Theo chiến lược mới, mũi tiêm đầu tiên có thể là vaccine của AstraZeneca, kế đến là của hãng Pfizer/BioNTech hoặc Moderna, và liều tăng cường có thể là của Novavax.
Với những thử nghiệm bước đầu trên, giới khoa học cho rằng về ngắn hạn, việc kết hợp tiêm các loại vaccine khác nhau có thể là giải pháp tình thế nên được cân nhắc, trong bối cảnh tình trạng khan hiếm nguồn cung vaccine đang ảnh hưởng tới tiến độ tiêm chủng ở nhiều nước. Còn về lâu dài, vẫn cần có những nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu và đánh giá khả năng bảo vệ thực tế của mô hình tiêm kết hợp vaccine này. Các nghiên cứu sẽ phải tập trung theo dõi các nhóm lớn được tiêm hai loại vaccine kết hợp, đối chiếu với nhóm tiêm một loại để đưa ra đánh giá cụ thể.
Các nhà khoa học cũng đang tìm hiểu những biến thể của virus SARS-CoV-2 có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả của các loại vaccine khác nhau. Về lâu dài, các nhà sản xuất cũng sẽ phải nghiên cứu điều chỉnh để vaccine có thể ứng phó tốt với các biến thể mới.
Châu Âu không bao giờ phê duyệt vaccine Sputnik của Nga? Thủ tướng Italy Mario Draghi không loại trừ khả năng vaccine Sputnik Nga có thể không bao giờ được Cơ quan Quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA) phê duyệt. "Chúng tôi đã nghiên cứu về các loại vaccine cụ thể đang được sử dụng và kết luận rằng vaccine của Nga vẫn chưa nhận được sự chấp thuận của EMA cũng như...