Vì sao khó thu hồi tài sản tham nhũng
Hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra khoảng 11.000 tỷ đồng, nhưng mới chỉ thu hồi khoảng 300 tỷ đồng, tức còn tới 97,4% chưa và không thu hồi được.
Ảnh minh họa
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, mỗi năm tham nhũng gây thiệt hại tới 2.600 tỷ USD, tương đương hơn 5% GDP toàn cầu; trong đó 1.000 tỷ USD chảy vào túi quan tham, được cất giấu và tẩy rửa tinh vi qua bất động sản hay tài khoản trong các ngân hàng trên khắp thế giới. Kinh nghiệm của thế giới cũng cho thấy, thường phải mất 10-15 năm sau khi nhà lãnh đạo nghỉ hưu hay thôi chức mới phát hiện có tham nhũng và cũng chỉ có khoảng 10-15% số tài sản này được thu hồi về ngân quỹ.
Theo báo cáo của Chính phủ về việc sơ kết 5 năm triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng thì trong 5 năm (từ 2007 đến 2012), toàn ngành Thanh tra và các cấp, các ngành đã kết thúc hơn 52.000 cuộc thanh tra, phát hiện nhiều thiếu sót, sai phạm, kiến nghị thu hồi ngân sách nhà nước trên 20.700 tỷ đồng và gần 3,8 triệu USD… Các dạng vi phạm về tài chính chủ yếu là nợ tiền thuế doanh nghiệp, nợ tiền sử dụng đất, tiền cổ phần hóa doanh nghiệp chậm nộp, chiếm dụng vốn, thu chi sai quy định, nghiệm thu không đúng khối lượng trong xây dựng…
Các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý với số lượng lớn, khởi tố hơn 1.400 vụ với 3.100 bị can. Qua điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng đã thu hồi về ngân sách nhà nước trên 1.000 tỷ đồng và 218,8 ha đất.
Số liệu thống kê cho thấy chỉ tính riêng năm 2011, hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra khoảng 11.000 tỷ đồng, nhưng mới chỉ thu hồi khoảng 300 tỷ đồng, tương ứng với 2,6%, tức là còn tới 97,4% chưa và không thu hồi được. Đầu năm 2012, tình hình cũng không có nhiều chuyển biến khi con số kiến nghị thu hồi hơn 6.400 tỷ đồng nhưng thực tế mới thu về được 141 tỷ đồng. Tỷ lệ phát hiện và thu hồi chênh nhau tới 46 lần.
Video đang HOT
Nhiều chuyên gia cho rằng, qua nhiều vụ án tham nhũng cho thấy, người phạm tội này đã có sự “tính toán” từ trước, tài sản không đứng tên họ mà đứng tên người thân, tiền của thì gửi ra nước ngoài… Thậm chí khi bị cơ quan điều tra phát hiện, họ trốn ra nước ngoài và sống sung túc.
Phải bóc tách tài sản tham nhũng đề thu hồi
Theo tiến sĩ Trần Văn Đạt (Phó Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp), Luật Phòng, chống tham nhũng mới chỉ quy định việc xử lý đối với người kê khai không trung thực hoặc kê khai không đầy đủ, chưa có quy định với người không kê khai tài sản.
Với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, pháp luật hiện hành còn thiếu quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài. Đồng thời, những quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn chưa toàn diện.
Bên cạnh đó, theo quy định của Bộ luật hình sự thì tài sản hoặc tiền bị tịch thu từ tội phạm phải là tài sản hoặc tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm. Nghĩa là nếu số tiền hay tài sản đó đã được thay hình đổi dạng, tách xa khỏi tội phạm ban đầu (điều thường xảy ra đối với tội phạm tham nhũng) sẽ rất khó cho cơ quan chức năng thực hiện việc thu hồi. Pháp luật hiện hành không quy định rõ về thẩm quyền cần thiết để có được lệnh thu hồi tài sản từ phía tòa án đối với bất động sản đang nằm ở nước khác;…
Mặt khác, do bản chất xuyên quốc gia của tội phạm, việc thu hồi tài sản thường phải truy tìm ở một số nước khác nhau. Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng yêu cầu hợp tác quốc tế mạnh mẽ trong việc việc thu hồi tài sản. Trong khi đó, quy định hiện hành của Việt Nam về tương trợ tư pháp không quy định rõ về việc cho phép lập lệnh thu hồi tài sản nước ngoài.
Vì vậy, theo tiến sĩ Đạt, để có hiệu quả thu hồi, xử lý tài sản tham nhũng, cần sớm sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự để hình sự hóa 12 hành vi tham nhũng cho phù hợp với Luật Phòng, chống tham nhũng. Nhà chức trách cần có hướng dẫn cụ thể việc xử lý tài sản, thu nhập không giải trình được nguồn gốc; tăng cường các biện pháp quản lý tài sản, thu nhập của công chức, nhất là người giữ vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.
Đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài; bổ sung chế tài giám sát chặt chẽ việc thực hiện kê khai, minh bạch tài sản thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai… Quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục về hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài, đồng thời cho phép Chính phủ yêu cầu nước ngoài thu hồi tài sản tham nhũng bắt nguồn từ Việt Nam hiện nằm tại nước khác, thuộc quyền tài phán của nước khác.
Còn theo tiến sĩ Nguyễn Tuấn Khanh (Phó Viện trưởng Viện Khoa học thanh tra), thực tế cho thấy, thu hồi tài sản trong các vụ việc tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng vẫn là vấn đề khó. Trong nhiều trường hợp, tài sản tham nhũng, lãng phí là rất khó xác định. Những vấn đề như thất thoát, thất thu, tham nhũng, lãng phí có những khoảng giao thoa lớn mà không tách bạch được. Vì vậy, vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng không chỉ đơn giản xác định các biện pháp thu hồi sau khi xác định rõ tài sản tham nhũng mà quan trọng hơn cả là có biện pháp để bóc tách được tài sản tham nhũng với các loại tài sản khác do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
Theo VNE
Tội phạm tham nhũng: Nên cấm án treo
Tội phạm về tham nhũng ngày một gia tăng nhưng việc phát hiện loại tội phạm này chiếm tỉ lệ thấp.
Nhiều ý kiến đề nghị không áp dụng án treo đối với người phạm tội tham nhũng. (Ảnh minh họa)
Khi đưa các vụ án tham nhũng ra xét xử thì hình phạt áp dụng với người phạm tội chưa tương xứng với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà họ thực hiện. Đặc biệt việc cho người phạm tội tham nhũng được hưởng án treo chiếm tỉ lệ khá cao làm xã hội hoài nghi vào hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Nhiều ý kiến đề nghị không áp dụng án treo đối với người phạm tội tham nhũng nhưng cũng có ý kiến cho rằng pháp luật phải công bằng, nếu họ có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 BLHS thì vẫn phải cho họ được hưởng án treo; không áp dụng án treo đối với họ thì khác gì họ bị "tăng nặng" hai lần... Các học giả tranh cãi nhiều về án treo với người phạm tội tham nhũng nhưng dư luận luôn không hài lòng về việc tòa án cho nhiều người phạm tội tham nhũng được hưởng án treo.
Vấn đề đặt ra là có nên cho người phạm tội tham nhũng được hưởng án treo không và nếu không cho người phạm tội tham nhũng được hưởng án treo, có trái với quy định của BLHS và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao?
Không phải đến giờ vấn đề án treo và tham nhũng mới được quan tâm mà cách đây vài thập niên, người dân đã nghi ngờ về tính nghiêm minh của pháp luật đối với người phạm tội tham nhũng. Lúc ấy, tổng kết công tác xét xử, chánh án TAND Tối cao kết luận: Đối với người phạm tội tham nhũng thì dứt khoát không được áp dụng án treo. Trường hợp đặc biệt, nếu tòa án áp dụng án treo thì phảibáo cáo TAND Tối cao. Tuy nhiên, kết luận này phai nhạt dần theo năm tháng vì nó không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
Còn hiện hành, theo quy định tại Điều 60 BLHS, khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì tòa án cho hưởng án treo. Còn theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, muốn được tòa án cho hưởng án treo, ngoài các điều kiện quy định tại Điều 60 BLHS, người phạm tội phải có nhân thân tốt, tức là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng. Như vậy, không có quy định nào hễ người phạm tội cứ có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 BLHS và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán là bắt buộc tòa án cho hưởng án treo. Việc người phạm tội có được hưởng án treo hay không là do hội đồng xét xử quyết chứ không phải là quy định bắt buộc dù họ có đủ "tiêu chuẩn" theo Điều 60 BLHS và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
Thực tiễn xét xử, nhiều tòa án đã quán triệt được tinh thần này nên dù bị cáo chỉ bị phạt sáu tháng tù, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt nhưng vẫn không được hưởng án treo. Tuy nhiên, không ít trường hợp có thể thẩm phán nhận thức chưa đúng về các quy định của BLHS mà cho rằng hễ người phạm tội hội tụ đủ các điều kiện theo luật định là cho hưởng án treo mà bỏ qua việc xem xét, đánh giá "có cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù hay không".
Nếu người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS, trong đó có tình tiết phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt mà tòa án không áp dụng đối với họ là trái pháp luật nhưng nếu các tòa án không cho người phạm tội tham nhũng được hưởng án treo, dù họ có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không những không trái pháp luật mà còn đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay. Thiết nghĩ Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng cần thống nhất với TAND Tối cao hướng dẫn tòa án các cấp chấm dứt việc áp dụng án treo đối với người phạm tội tham nhũng cũng là một biện pháp góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.
Theo Khampha
Thế nào là hành vi khủng bố theo Luật VN? Luật Phòng, chống khủng bố sẽ có hiệu lực từ ngày 1/10/2013, nhằm đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Sáng ngày 5/7, Văn phòng Chủ tịch nước đã họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước về Luật phòng, chống khủng bố, Luật khoa học và công nghệ, Luật giáo dục quốc...