Vì sao EVN “hào phóng” mua điện Trung Quốc giá cao?
Việc mua điện giá cao từ Trung Quốc ngay ở thời điểm nguồn cung cấp trong nước dồi dào, Việt Nam quá thua thiệt và yếu thế trong quan hệ hợp đồng.
GS TS Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội nêu quan điểm trước thực tế Việt Nam đang mua điện của Trung Quốc giá cao.
GS TS Đặng Đình Đào cũng chỉ ra rằng, Việt Nam không thể cứ tiếp tục đàm phán mua điện của Trung Quốc theo hợp đồng dài hạn gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế và cho cả các nhà máy điện nội địa.
Lợi ích nhóm
Một thực tế vẫn diễn ra là Việt Nam đang mua điện của Trung Quốc với giá cao cả ở thời điểm nguồn cung cấp trong nước dồi dào lý do vì hợp đồng mua điện với Trung Quốc được ký từ năm 2005 và chính thức mua điện từ 2009. Thỏa thuận hợp đồng hiện nay buộc phải cam kết về sản lượng và thời gian mua nếu không mua sẽ bị phạt. Xét trên góc độ kinh tế, ông bình luận thế nào về hợp đồng với những ràng buộc chỉ có lợi cho bên bán như trên?
Thực tế nhiều năm qua Việt Nam phải mua một sản lượng điện thương phẩm lớn từ Trung Quốc để đáp ứng nhu cầu trong nước, có thời điểm lên tới 4,65 tỷ kWh, chiếm 4% tổng sản lượng điện thành phẩm của Việt Nam.
Trong điều kiện của những năm trước đây khi nguồn cung điện trong nước còn hạn chế thì việc mua điện Trung Quốc là giải pháp cần thiết để giải bài toán cân đối cung cầu điện.
Nhưng thời gian gần đây, nguồn điện trong nước được tăng cường nhiều hơn, nhiều nhà máy điện ngoài Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN chưa huy động hết công suất, có thời điểm điện dư thừa, giá lại rẻ hơn nhiều giá điện Trung Quốc bán cho Việt Nam mà Việt Nam lại vẫn tiếp tục nhập khẩu điện của Trung Quốc với giá cao là điều ngành Công thương và EVN cần phải sớm tính toán và xem xét lại một cách nghiêm túc.
Dù hợp đồng mua bán điện của EVN với Trung Quốc có cam kết về số lượng, bao tiêu với số lượng cụ thể nếu không mua sẽ bị phạt, thậm chí ngay khi thừa điện ở Việt Nam thì vẫn phải nhập từ Trung Quốc với giá điện ngày càng tăng. Rõ ràng xét trên góc độ kinh tế Việt Nam quá thua thiệt và yếu thế trong quan hệ hợp đồng.
Việt Nam đang mua điện của Trung Quốc với giá cao cả ở thời điểm nguồn cung cấp trong nước dồi dào
Tình trạng này kéo dài, khi mà hợp đồng hàng năm đã như thế thì chúng ta không thể cứ tiếp tục đàm phán mua điện của Trung Quốc theo hợp đồng dài hạn với hình thức trên, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế và cho cả các nhà máy điện nội địa.
Đây là điều không thể chấp nhận được, là trách nhiệm thuộc về EVN và Bộ Công Thương và cũng chính từ đây đặt ra nhiều câu hỏi về lợi ích kinh tế, “lợi ích nhóm” cho EVN và Bộ Công thương.
Có lẽ đây là hậu quả của độc quyền trong ngành điện và cơ chế bộ chủ quản mà chúng ta phải hứng chịu.
Trong khi nhiều doanh nghiệp sản xuất điện sẵn sàng chịu lỗ để hòa lưới điện EVN vẫn đang mua điện Trung Quốc với giá cao do ràng buộc bởi hợp đồng mua bán điện đã ký dài hạn. Điều này có chứng tỏ khả năng dự báo nhu cầu điện năng và năng lực sản xuất điện trong nước đang có vấn đề hay không? Dự báo sai gây thiệt hại cho nền kinh tế và cho người dân, EVN phải chịu trách nhiệm như thế nào?
Thực tế hiện nay, các nhà máy điện nội địa ngoài EVN với giá điện thấp hơn nhiều so với giá điện của Trung Quốc muốn tham gia “thị trường điện cạnh tranh” cũng rất khó vì yêu cầu của EVN quá cao.
EVN mua với giá chỉ bằng 1/3 giá mua điện của Trung Quốc kèm theo các điều kiện rất khắt khe. Trong khi đó EVN lại rất “hào phóng” khi mua một lượng lớn điện thương phẩm từ Trung Quốc với giá cao và có xu hướng tăng nhanh những năm gần đây, làm méo mó thị trường điện, vốn thị trường độc quyền lâu nay ở Việt Nam.
Bối cảnh vận hành thị trường điện như vậy của EVN hậu quả là điện nội địa giá rẻ, có khi dư thừa nhưng lại nhập một lượng lớn điện từ Trung Quốc với giá cao để “cân đối cung – cầu”. Chắc chắn là sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân, cho người dân cũng như cho các doanh nghiệp.
Điều này, một mặt chứng tỏ khả năng điều tiết thị trường của EVN, khả năng dự báo nhu cầu điện và năng lực sản xuất điện trong nước đang có nhiều vấn đề.
Video đang HOT
Mặt khác, chứng tỏ tính độc quyền mặt hàng điện hiện nay mà EVN nắm độc quyền chủ yếu. Trong điều kiện như thế, người tiêu dùng không thể hi vọng giá điện ở Việt Nam sẽ rẻ hơn.
Dự báo sai về sự vận động của thị trường điện gây thiệt hại cho nền kinh tế và cho người dân, rõ ràng EVN và tiếp đó là Bộ Công thương phải gánh chịu trách nhiệm kinh tế này.
Nguy cơ phụ thuộc hiện hữu
Những ràng buộc có nghi vấn trong hợp đồng mua bán điện với Trung Quốc và sự cố Hiệp Hòa liên quan tới việc sử dụng thiết bị Trung Quốc mới đây khiến dư luận đặt câu hỏi về sự hiện diện quá lớn của Trung Quốc trong ngành điện Việt Nam. Phải lý giải điều này như thế nào, khi mà thiết bị Trung Quốc vốn bị coi là chất lượng kém, bãi rác công nghệ của thế giới? Liệu có thể đặt nghi vấn về lợi ích nhóm trong việc này hay không, thưa ông?
Trung Quốc luôn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 25,3% tổng kim ngạch nhập khẩu và có tới 30 mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đạt kim ngạch trên 100 triệu USD.
Trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD và với nhiều dự án mà Trung Quốc trúng thầu ở Việt Nam với giá bỏ thầu thấp cho thấy một thực tế trong ngành điện Việt Nam cũng như nhiều ngành khác, nhiều nhà máy đã và đang sử dụng hệ thống trang thiết bị của Trung Quốc là rất lớn.
Thiết bị của Trung Quốc vốn bị coi là chất lượng kém nên thường xảy ra sự cố là điều dễ hiểu. Như ở trên đã trao đổi về việc nhập khẩu điện của Trung Quốc với giá cao trong khi giá điện của các nhà máy nội địa ngoài EVN rẻ hơn thì không thể tham gia được thị trường điện và việc nhập khẩu điện từ Trung Quốc với giá cao.
Sự cố liên tiếp 2 máy biến áp 500kV công suất 900 MVA tại trạm biến áp Hiệp Hòa (Bắc Giang) chỉ trong vòng 1 tuần lễ dấy lên lo ngại về chất lượng thiết bị, công nghệ do nhà thầu Trung Quốc cung cấp – Ảnh LĐO
Cùng với nhiều doanh nghiệp, nhà máy trong đó có các nhà máy điện Việt Nam đang sử dụng nhiều thiết bị điện của Trung Quốc giá rẻ, chất lượng kém như hiện nay thì việc đặt ra nhiều dấu hỏi, kể cả nghi vấn về “lợi ích nhóm” trong vấn đề này là hoàn toàn có cơ sở.
Sự hiện diện rất lớn của Trung Quốc trong ngành điện Việt Nam có đặt ra nguy cơ phụ thuộc hay bị thao túng hay không, thưa ông? Nếu điều này xảy ra thì mức độ nguy hại sẽ như thế nào? Với tình trạng độc quyền như EVN hiện nay, trách nhiệm trong việc này liệu có thể quy cho ai khác không, thưa ông? Cụ thể như thế nào?
Vì điện thương phẩm mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc ở thời điểm cao mới ở mức 4% tổng sản lượng điện thương phẩm của Việt Nam.
Hơn nữa các nhà máy điện nội địa mới chỉ sử dụng khoảng 70 – 80% công suất thiết, với giá điện còn rẻ hơn của Trung Quốc thì hy vọng với những điều chỉnh cần thiết về chính sách và quản lý thị trường điện ở nước ta trong thời gian tới, tình hình kinh doanh điện và thị trường điện sẽ chuyển biến theo hướng tích cực.
Do vậy, với sự hiện diện của Trung Quốc như hiện nay đối với điện chưa đến mức đặt ra nguy cơ phụ thuộc hay thao túng thị trường của Trung Quốc đối với thị trường điện Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu tình hình thị trường điện hiện nay không được cải thiện, EVN quản lý và kinh doanh điện vẫn theo cách như lâu nay, sản xuất kinh doanh chạy theo thiết bị giá rẻ, bỏ thầu giá thấp của Trung Quốc thì nguy cơ trên là hiện hữu và sẽ gây nguy hại cho nền kinh tế quốc dân, cho chính người dân Việt Nam và cho cả sự phát triển bền vững của Việt Nam…
Với tình trạng độc quyền như EVN hiện nay và thiếu minh bạch trong kinh doanh trên thị trường điện ở Việt Nam, trách nhiệm trong việc này trước hết là do từ chính cơ chế quản lý kiểu bộ chủ quản lâu nay không được thay đổi, tiếp đó là các cơ quan quản lý nhà nước trong ngành điện mà cụ thể là Bộ Công thương và cả EVN trong tổ chức và quản lý điện Việt Nam.
Có ý kiến chỉ thẳng, mấu chốt của vấn đề phải là nhanh chóng xóa bỏ tình trạng độc quyền của EVN, chấm dứt tình trạng 1 tay nắm cả mua bán, phân phối, điều độ, ông có đồng tình hay không và vì sao? Xin ông phân tích cụ thể hơn về vấn đề này.
Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm này vì tình trạng độc quyền và kéo dài sự “bảo hộ” sản xuất điện quá lâu rồi ở Việt Nam.
Người tiêu dùng điện phải luôn sử dụng điện với giá ngày một cao và luôn yếu thế trong quan hệ mua bán điện với EVN.
Đã đến lúc cần phải có sự thay đổi trong quản lý và điều hành thị trường điện theo đúng các quy luật của kinh tế thị trường, không thể “vừa đá bóng vừa thổi còi” trong quản lý và kinh doanh điện ở nước ta.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Theo Tâm An (thực hiện)
Đất Việt
Bà Phạm Chi Lan: Việt Nam tự lệ thuộc Trung Quốc thế nào?
Tìm kiếm kênh mới, bỏ tư duy làm ăn kiểu dễ dãi và nâng giá trị, chất lượng sản phẩm mình có là cách để Việt Nam thoát Trung dễ dàng.
Gạo Việt Nam tìm khách hàng mới, giảm phụ thuộc Trung Quốc Thêm bằng chứng nông, thủy sản phụ thuộc Trung Quốc Chia sẻ với Đất Việt trước hàng loạt các ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam phải bước ra khỏi sự lệ thuộc đối với Trung Quốc, nhất là trong tình hình căng thẳng trên Biển Đông hiện nay, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói thằng là: có nhiều kênh để làm ăn, tạo điều kiện để Việt Nam nâng giá chính mình
Việt Nam tự đặt mình vào thế lệ thuộc
Thưa bà, thời gian gần đây có nhiều ý kiến nhắc tới việc nền kinh tế của Việt Nam phải tìm cách để thoát khỏi sự lệ thuộc đối với Trung Quốc. Thế nhưng thời gian qua thực tế tỉ trọng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam thấp nhưng lại chiếm ở những ngành trọng điểm. Còn về xuất khẩu với các lĩnh vực Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động nhưng vẫn bị lệ thuộc Trung Quốc (xuất khẩu gạo, nông sản...). Theo bà điều này có thể lý giải như thế nào?
Tôi cũng đã nói trong một số trường hợp vừa qua chính mình đã tự đặt mình vào vị thế lệ thuộc khi mà các dự án phải dùng tổng thầu EPC đưa ra đấu thầu thì rút cục là hấu hết các dự án rơi vào tay Trung Quốc
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: Trong một số trường hợp vừa qua chính mình đã tự đặt mình vào vị thế lệ thuộc Trung Quốc
Tại sao vậy? Trước hết là chính quy định của mình trước đây là khi đấu thầu lại chú trọng yếu tố giá cả là số một. Do vậy khi người ta dùng xảo thuật chào với giá thấp nhưng mà không biết sẽ đảm bảo chất lượng như thế nào. Họ đã làm mù mờ các điều kiện kỹ thuật mà chỉ nhấn mạnh điều kiện về giá cả. Rồi chúng ta lao theo và quyết định đưa vào. Bằng cách đó chúng ta đã đưa tất cả những dự án này vào tay người Trung Quốc.
Bây giờ Nhà nước đã chỉnh lại. Luật đấu thầu sửa đổi trong đó tiêu chuẩn số một là phải đáp ứng về chất lượng. Cái đó quá quan trọng. Những công trình lớn hàng trăm triệu đô la thì yêu cầu số 1 phải là chất lượng chứ không phải là giá cả rẻ.
Chúng ta hãy nhìn trên thế giới, sẽ không có sản phẩm chất lượng cao mà giá rẻ đâu. Chúng ta đừng so sánh như vậy. Nếu mình đặt địa vị mình là người tiêu dùng cuối cùng thì cũng không ai đi mua hàng độc hại với giá rẻ trong khi chọn lựa ăn ít hơn nhưng dùng hàng chất lượng cao hơn.
Đối với nền kinh tế quốc gia cũng vậy. Trước đây mình có những chính sách không rõ ràng. Luật trước đây có những kẽ hở tạo điều kiện cho người dự thầu các dự án được chọn cuối cùng thì lấy tiêu chuẩn giá là số 1. Vì vậy các công ty của Trung Quốc nhiều khi thắng được các công ty của Pháp, Đức, Nhật Bản khi chọn làm tổng thầu cho Việt Nam.
Hai nữa là cơ chế giám sát. Thực sự nhà nước sau đó nhiều khi buông giám sát để cho chủ đầu tư làm là chính. Song nói thật nếu không có đủ cả trình độ lẫn đạo đức dễ bị bịt mắt nhận những sản phẩm tồi mà không biết đánh giá như thế nào.
Còn về vấn đề đạo đức cứ có một số tiền lại quả nào đó là cho qua hết cho những cái yếu, cái tồi (thậm chí vi phạm hợp đồng)... chọn cho lợi ích riêng của mình.
Phải thoát khỏi kiểu làm ăn dễ dãi
Vậy theo bà vấn đề mấu chốt để thoát Trung là gì?
Để thoát Trung trước hết tự bản thân mình phải xem lại mình điều chỉnh cách thức phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của mình. Lâu nay phải nói rằng chiến lược của Việt Nam đi rất đúng đường. Chúng ta đàm phán tham gia vào WTO, gia nhập một sân chơi toàn cầu và một loạt các hiệp định với các đối tác quan trọng.
Hiện nay thì ai cũng biết Việt Nam đang đàm phán Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) để tham gia vào khối kinh tế trong đó chỉ có 12 nước tham gia nhưng lại chiếm một lượng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư rất lớn. Đây là cơ hội rất lớn cho Việt Nam.
Chúng ta cũng đàm phán với Liên minh châu Âu hiệp định FTA gồm có 28 quốc gia. Hiệp định này có điều kiện tương tự như TPP nhưng cao cấp hơn, đòi hỏi chặt chẽ hơn, kể cả về cải cách thể chế nhưng tạo cơ hội cho Việt Nam nhiều mặt. Nó không đơn thuần là thị trường lớn hơn cho xuất nhập khẩu hoặc có nguồn đầu tư lớn hơn mà còn tự cải cách được mình về thể chế kinh tế, cách thức làm ăn để nâng chuẩn mình lên cùng với các nước tiên tiến trên thế giới.
Tôi nghĩ rằng có rất nhiều kênh khác nhau để Việt Nam có thể làm ăn. Vấn đề chính ở đây là tự Việt Nam phải thoát ra khỏi cách làm ăn quen kiểu dễ dãi với một đối tác dễ dãi như Trung Quốc. Bây giờ xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc khoảng 10% và nhập khẩu tới 30%. Về điều này hoàn toàn chúng ta có thể điều chỉnh được.
Nếu như xuất khẩu chúng ta có thể giảm dần việc xuất khẩu khoáng sản thô tiến tới tăng cường chế biến để xuất khẩu thì sẽ có giá trị hơn, tạo được công ăn việc làm ở trong nước.
Ngay cả đối với nông sản cũng vậy. Chúng ta kêu gọi mãi xuất khẩu nông sản có hàm lượng công nghệ cao hơn, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm cao hơn thì chắc chắn chúng ta bán được với giá tốt hơn nhiều so với việc bán giá rẻ sang thị trường Trung Quốc.
Mặt khác nữa về thị trường xuất khẩu cũng có nhiều cái tôi cho rằng hơi cực đoan khi cứ hướng đến xuất khẩu trong khi thị trường trong nước vẫn còn rất rộng.
Ví dụ vải Bắc Giang, Hải Dương cứ lo liệu Trung Quốc năm nay có mua hay không trong khi cả thị trường miền Nam, miền Trung bao nhiêu người dân cũng có nhu cầu và có thể mua. Tại sao lại cứ lo bán sang biên giới hơn là trong nội địa.
Hay như dưa hấu miền Nam cũng vậy, chở lên biên giới để rồi người ta không mua khiến thối hỏng, trong khi dưa hấu ở Hà Nội và các tỉnh miền Bắc vẫn rất đắt. Những cái đó mình phải tự điều chỉnh thị trường nội địa.
Nhập khẩu cũng vậy. Về cơ bản chúng ta nhập khẩu rất nhiều sản phẩm trung gian, đứng về góc độ các nước đang phát triển thì đây mới là phần mang lại giá trị gia tăng cao. Nó là đầu vào cho các ngành kinh tế.
Nếu bây giờ chúng ta chuyển sang thực hiện tái cơ cấu một số ngành sản xuất, tập trung các ngành công nghiệp phụ trợ thì hoàn toàn có thể chuyển từ thế nhập khẩu thị trường bên ngoài thành những ngành sản xuất ở Việt Nam để cung ứng cho thị trường Việt Nam. Hoặc tìm kiếm nhập khẩu từ các nước khác. Các sản phẩm chúng ta đang nhập từ Trung Quốc thì Ấn Độ cũng có. Một số nước ASEAN khác cũng có cho nên không nhất thiết phải phụ thuộc Trung Quốc.
Về giá có thể sẽ đắt về ngắn hạn nhưng tôi nghĩ về trung hạn và dài hạn hoàn toàn có thể bù đắp được. Bởi vì hiện nay những cái chúng ta nhập khẩu từ Trung Quốc có những khi bị đội giá lên. Điển hình như các hợp đồng mà Trung Quốc thực hiện ở Việt Nam bị kéo dài thời gian, ban đầu bỏ thầu một nhưng trên thực tế đắt gấp hai gấp ba lần.
Rồi sự không minh bạch trong làm ăn, tham nhũng, đi đêm ở đó dẫn đến giá rẻ nhưng lại hóa cao và nền kinh tế phải trả giá mà chính những người nộp thuế đang phải gánh chịu.
Nếu chúng ta chuyển sang làm với các thị trường đàng hoàng hơn thì cắt được phần giá cao đó thì thừa đủ bù từ việc tìm kiếm nguồn công nghệ cao hơn, thiết bị đắt hơn.
Tôi nghĩ hiệu quả kinh tế thì đừng lo. Tôi trông chờ nhất ở cơ hội này để tạo cơ hội cho Việt Nam tự phát triển. Lý do là vì mấy năm vừa rồi ngành công nghiệp Việt Nam bị bế tắc, bão hòa khi các doanh nghiệp cảm thấy những sản phẩm mình vẫn làm nhưng thị trường tiêu thụ khó khăn - kể cả trong nước. Bây giờ phải đi vào những ngành mới. Đây là những ngành mà chúng ta cứ cắm cổ mua ở nước ngoài thì bây giờ là cơ hội cho các doanh nghiệp ở Việt Nam có thể phát triển ở nước mình.
Điều kiện cần là hệ thống chính sách phải có điều kiện mạnh mẽ, điều chỉnh việc phân bổ nguồn lực làm sao hướng về những ngành có khả năng tạo lợi nhuận cao. Cũng như hệ thống chính sách khuyến khích phải làm sao cắt bỏ dần những doanh nghiệp chạy theo hướng tìm kiếm đặc lợi bằng cách chuyển sang khuyến khích doanh nghiệp làm ra giá trị gia tăng cao, mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
Nếu làm được thì chính các doanh nghiệp này sẽ tạo nên diện mạo khác cho nền kinh tế, giảm đi thế lệ thuộc vào Trung Quốc.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
Theo Bích Ngọc (thực hiện)
Đất Việt
Hình ảnh hàng trăm cây xanh bị mưa giông "quật ngã" ở Hà Nội Trận mưa lớn kèm giông tố tối 4/6 khiến hàng trăm cây xanh ở Hà Nội bị đổ gục, gãy cành... gây thiệt hại về người và tài sản. Cành cây tả tơi dọc vỉa hè đường Lê Văn Lương. Nhiều cây xanh bị bẻ gãy ngang thân. Bịt kín đường đi. Cây xanh trong các công viên bị giông, tố "quật ngã"....