“Vị đắng” ngành mía đường
Chỉ còn chưa đầy 2 tháng nữa hạn ngạch thuế quan nhập khẩu mặt hàng đường sẽ chính thức được xóa bỏ (kể từ ngày 1/1/2020) theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) nhưng ngành mía đường Việt Nam vẫn đang loay hoay bài toán làm sao để hội nhập. Càng buồn hơn, có cơ quan chức năng và dư luận lại ngộ nhận rằng, ngành mía đường vẫn đang ỷ lại vào bảo hộ của Nhà nước…
Bài 1: Sự “méo mó” của thị trường
Trong khối ASEAN có 4 quốc gia sản xuất mía đường chính là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Việt Nam. Ngoài ngành đường Thái Lan phát triển dựa trên bảo hộ, trợ cấp, trợ giá của Chính phủ, tương quan giữa ngành đường Việt Nam và ngành đường hai quốc gia còn lại (đã gia nhập ATIGA từ 2015) là Philippines và Indonesia, nếu so sánh trên các khía cạnh, Việt Nam không hề thua kém.
Thị trường biến dạng vì… trợ giá
Thu hoạch mía tại Nông Sơn, Quảng Nam. Ảnh: T.L
Ông Nguyễn Văn Lộc – quyền Tổng Thư ký Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA) cho biết, giá đường từ vụ 2018 – 20919 đã xuất hiện mức giá đáy 10 Uscent/lb vào thời điểm tháng 9/2018. Đến nay, giá đường vẫn ở mức thấp và dao động quanh mức 12 Uscent/lb. Như vậy, sau khi đạt đỉnh mức 23 Uscent/lb vào tháng 8/2016, giá đường đã liên tục giảm và mức giá hiện nay thấp hơn giá thành sản xuất của bất kỳ quốc gia nào (vì Brazil là nước có giá thành sản xuất đường thấp nhất 16 Uscent/lb). “Giá thấp như thế nhưng tại sao vẫn liên tục sản xuất thừa cung, trình độ sản xuất đường thế giới đã tiến bộ chăng?” – ông Lộc đặt vấn đề.
Tuy nhiên, lý giải hiện tượng này, ông Lộc cho rằng, hoàn toàn không phải trình độ sản xuất cải thiện mà là sự gia tăng can thiệp trợ giá của nhiều quốc gia đã làm biến dạng thị trường đường thế giới, và đường đưa ra thị trường quốc tế với giá rẻ như thế chính là đường phá giá. “Thị trường đường thế giới trong giai đoạn vừa qua thực sự không hoạt động theo quy luật cung – cầu và cạnh tranh bình đẳng mà đã bị biến dạng bởi sự can thiệp trợ giá đường của các chính phủ đến mức gian lận thương mại khi vi phạm các nguyên tắc thương mại quốc tế của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) và đây là một hiện tượng rất đặc biệt trong thời gian vừa qua, đến nỗi ngành đường thế giới đã phải gọi năm 2018 là “năm trợ giá”. Loại hình gian lận này càng làm cho giá đường thế giới không thể nào cải thiện” – ông Lộc nói.
Video đang HOT
Dẫn chứng, ông Lộc cho biết, hàng loạt vụ kiện đã được gửi lên WTO, như: Hồ sơ DS5073 Thailand (tháng 4/2016, Brazil kiện Thái Lan ra WTO); hồ sơ DS5795 India (ngày 27/02/2019, Brazil kiện Ấn Độ ra WTO); hồ sơ DS5806 India (ngày 27/2/2019, Australia kiện Ấn Độ ra WTO); hồ sơ DS5817 India (ngày 15/3/2019, Guatemala kiện Ấn Độ ra WTO). Các quốc gia đứng đơn kiện đều là những quốc gia trong top xuất khẩu đường, chứng minh rằng dù là người đang xuất khẩu mạnh nhưng cũng không thể chịu nổi mức giá đường trên thị trường quốc tế có xuất xứ từ các biện pháp hỗ trợ đến mức làm biến dạng thị trường của các nước bị kiện.
Vị thế ngành đường Việt Nam ở đâu?
Về trình độ sản xuất và vai trò của ngành mía đường Việt Nam, nếu so với Philippines, quy mô ngành mía đường Philippines nhỉnh hơn Việt Nam, với diện tích 410.000ha so với 300.000ha. Năng suất ngành đường Philippines tương đương và thấp hơn Việt Nam một chút, mức 5 tấn đường/ha so với 5,3 tấn đường/ha.
Trong lĩnh vực chế biến đường, Philippines cũng có nhiều nhà máy công suất nhỏ phù hợp với các vùng nguyên liệu. Về trình độ sản xuất, các chỉ tiêu về thu hồi và chất lượng thấp hơn một chút so với Việt Nam. Về an sinh xã hội, ngành đường Philippines chỉ ảnh hưởng đến 80.000 nông hộ (do quy mô bình quân 5ha/hộ), trong khi Việt Nam ảnh hưởng đến 400.000 nông hộ (do quy mô bình quân 0,8ha/hộ), tức quy mô sản xuất hộ nhỏ hơn Philippines 5 lần.
Như vậy, nhận xét một cách khiêm tốn, quy mô và trình độ sản xuất của ngành mía đường hai nước là tương đương nhau, nhưng tầm quan trọng của ngành mía đường Việt Nam không hề kém Philippines trong nền kinh tế của mỗi nước, đặc biệt xét về an sinh xã hội, ngành mía đường Việt Nam còn có vai trò lớn hơn nhiều lần so với Philippines.
Nếu so với Indonesia, quy mô ngành mía đường Indonesia nhỉnh hơn Việt Nam, với diện tích sản xuất khoảng 410.000ha so với 300.000ha. Năng suất ngành đường Indonesia tương đương Việt Nam với mức 5,5 tấn đường/ha so với 5,3 tấn đường/ha. Tuy nhiên, trình độ chế biến đường của Indonesia, do quá cũ kỹ lạc hậu chắc chắn không thể so sánh với Việt Nam. Về cơ cấu ngành trồng mía, Indonesia có sự tương đồng với Việt Nam khi diện tích mỗi nông hộ nhỏ lẻ manh mún, thậm chí còn nhỏ hơn Việt Nam. Về an sinh xã hội ngành đường Indonesia ảnh hưởng đến trên 1 triệu nông hộ (do quy mô bình quân 0,2ha/hộ). Với quy mô dân số của Indonesia hiện khoảng 270 triệu dân so với 95 triệu dân của Việt Nam, tầm quan trọng của ngành mía đường Việt Nam không hề kém Indonesia.
Xét về tình hình bảo vệ thị trường đường, tại Philippines, việc bảo vệ được dựa trên các nguyên tắc: Thiết lập và duy trì sự cân đối cung cầu đường cũng như duy trì mức giá hợp lý nhằm bảo đảm thu nhập cho người sản xuất đường và công bằng cho người tiêu thụ. Đường nhập khẩu được kiểm soát chỉ ở mức tương đương với lượng đường thiếu hụt.
Tại Việt Nam, giá mía và giá đường dựa trên thỏa thuận giữa nhà máy và nông dân. Việc kiểm soát nhập khẩu đường có áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ), tuy nhiên, hiệu lực của chính sách bảo hộ bị suy giảm nghiêm trọng do tình trạng buôn lậu đường từ Thái Lan và các hình thức gian lận thương mại trên thị trường. Bên cạnh đó, việc không hạn chế sử dụng đường lỏng sirô ngô trong chế biến thực phẩm khiến ngành đường gặp khó khăn nghiêm trọng.
Về giá mía và giá đường, theo báo cáo của Tổ chức Đường thế giới (ISO), giá đường của Philippines và Indonesia những năm gần đây luôn ổn định và duy trì mức giá hợp lý nhằm bảo đảm thu nhập cho người sản xuất đường. Trong khi đó, giá đường của Việt Nam lại thấp nhất, có nghĩa là giá mua mía của nông dân Việt Nam là thấp nhất so với hai quốc gia trên. Rõ ràng, so sánh các tương quan trên, nếu có những chính sách hợp lý từ phía Nhà nước, cơ quan chức năng, ngành mía đường Việt Nam hoàn toàn có thể tự tin gia nhập ATIGA.
Theo Danviet
Thông tin vừa cũ vừa thiếu, ngành mía đường bị ngộ nhận về năng lực
Theo thông tin chính thức của Hiệp hội mía đường Việt Nam (VSSA), tổng diện tích trồng mía của Việt Nam hiện nay chỉ còn chưa tới 200.000 ha, niên vụ tới (2019-2020) có lẽ chỉ còn khoảng 150.000 ha.
Tuy nhiên, báo cáo trước Quốc Hội, nhiều lãnh đạo ngành nông nghiệp vẫn dùng những số liệu rất cũ khi nhận định diện tích mía vẫn còn khoảng 240.000 - 260.000 ha.
Nông dân canh tác mía đường (Ảnh: IT)
Ông Nguyễn Văn Lộc, quyền Tổng Thư ký Hiệp hội Mía đường Việt Nam cho biết, trên thị trường thế giới sau hai vụ liên tục thừa cung, dự báo niên vụ 2019-2020 sẽ chấm dứt tình trạng thừa cung và chuyển sang tình trạng thâm hụt (dự kiến thâm hụt từ 4-5 triệu tấn).
Về giá đường, vụ 2018-2019 đã xuất hiện giá đáy khoảng 10 UScents/lb (tháng 9/2018), và hiện nay vẫn ở mức thấp, chỉ khoảng 12 UScents / lb (hiện tại là 12.36 UScents /lb). Mức giá này thấp hơn giá thành sản xuất ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, bởi Braxin là nước có giá thành sản xuất thấp nhất cũng lên tới 16 UScents / lb.
Nguyên nhân khiến giá đường giảm mạnh trong những niên vụ gần đây là do sự can thiệp bảo hộ của các nước, cộng với gian lận thương mại, trong đó năm 2018 được đánh giá là năm trợ giá của ngành đường. Đó cũng là nguyên nhân của nhiều vụ kiện thương mại mà các quốc gia sản xuất đường kiện lên WTO, đáng chú ý là các quốc gia đứng đơn kiện đều là các quốc gia hàng đầu về ngành đường.
Đáng tiếc là trong một thời gian rất dài, các thông tin về bản chất biến dạng đến mức gian lận thương mại của thị trường đường thế giới, đặc biệt là gian lận thương mại đến mức méo mó của thị trường đường Thái Lan không được Hiệp hội Mía đường Việt Nam với tư cách là hiệp hội ngành nghề kịp thời nhận diện và thông tin đến các đơn vị hữu quan và dư luận.
"Sự thiếu sót thông tin này khiến cho toàn bộ xã hội cũng như cơ quan quản lý Nhà nước ngộ nhận năng lực cạnh tranh của ngành đường và nông dân trồng mía Việt Nam quá thấp so với thế giới, quá thấp so với Thái Lan và chỉ ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước", ông Lộc nhận xét.
Hội nghị tổng kết niên vụ 2018-2019 của ngành mía đường Việt Nam (Ảnh: Quốc Hải)
Theo ông Lộc, những ngộ nhận trên đã gây ra những hậu quả và bất lợi cho sự phát triển của ngành đường Việt Nam.
Còn theo chia sẻ của ông Cao Anh Đương, quyền Chủ tịch Hiệp hội mía đường Việt Nam (VSSA), ngành mía đường Việt Nam hiện nay rất thảm. Chẳng hạn, diện tích mía của Việt Nam chưa tới 200.000 ha, đó là của niên vụ trước. Còn vụ 2019-2020 này thì diện tích còn xuống nữa, dự kiến chỉ còn hơn 150.000 ha một tý.
"Con số này không biết đã đến tai các lãnh đạo chưa, chứ tôi thấy các lãnh đạo mấy bữa nay đăng đàn, dùng con số rất cũ khi nói diện tích mía còn 260.000 ha. Bây giờ làm gì còn, con số ngoài thực tế thậm chí còn thảm hơn so với thống kê của chúng tôi, năng suất cũng không ước lượng được, chúng tôi chỉ lấy con số xêm xêm niên vụ trước thôi, dựa trên báo cáo không đầy đủ của các đơn vị. Vì lý do nhiều đơn vị cũng không gửi thông tin cho hiệp hội, nên phải lấy từ nhiều nguồn thông tin khác nhau nên có thể cũng chưa chính xác. Số liệu này cũng là số liệu lần đầu tiên chúng tôi công bố ra ngoài về tình trạng ngành mía đường hiện nay", ông Đương nói.
Theo ông Đương: "Tôi cũng không biết bên Cục Trồng trọt hay Bộ NNPTNT còn con số nào khác hay không vì theo con đường các Sở Nông nghiệp báo cáo lên, nhưng tôi nghĩ con số này là chính xác, vì trước khi kết thúc niên vụ 2018-2019, chúng tôi đã đi nhiều và thấy giảm rất nhiều. Các đơn vị khác đánh giá diện tích còn 240.000 ha nhưng tôi cho rằng không có đâu chỉ còn chưa tới 200.000 ha".
Theo Danviet
Ngành mía đường "mãi không chịu lớn" và nỗi oan khó giải Trao đổi với phóng viên Báo NTNN, nhiều chuyên gia về kinh tế và mía đường cho rằng: Sau gần 20 năm ngành mía đường Việt Nam sống chung với định kiến "dù được bảo hộ nhưng mãi không chịu lớn". Đã đến lúc dư luận cần có một cách nhìn khách quan hơn, nhà nước cần có cơ chế, chính sách bài...