Vén màn bí ẩn chuyện tráo đổi con chấn động cung đình xưa
Ít ai biết rằng chốn hoàng cung thâm nghiêm nhiều khi lại là nơi việc tráo đổi con lại dễ xảy ra hơn ở ngoài đời.
Những truyền kỳ trong cung đình Trung Quốc
Nói về chuyện cố tình tráo đổi con của người khác trong cung đình, dã sử Trung Quốc có hai câu chuyện điển hình. Một là vụ “Ly miêu hoán thái tử” thời Tống và hai là vụ đánh tráo con trai con gái thời Thanh.
Trong vụ Ly miêu hoán thái tử, dân gian Trung Quốc truyền rằng trong hậu cung của vua Tống Chân Tông thời đó có Lý Thần phi và Lưu Hoàng hậu cùng sinh con một đợt. Lưu Hoàng hậu sinh con gái nhưng chết yểu còn Lý Thần phi sinh con trai. Lưu Hoàng hậu bèn lập mưu cùng hoạn quan tráo con của Lý thần phi bằng một con Ly miêu và nói rằng Lý thị sinh ra yêu nghiệt.
Tranh vẽ dựa trên truyện “Ly miêu hoán thái tử”.
Sau đó Lý thị bị đuổi ra khỏi hậu cung và lưu lạc dân gian còn con trai bà sau này được kế vị ngôi vua. Đến cuối đời, Lý thị gặp được Bao Thanh Thiên nên được minh oan và được vua đón vào cung tôn làm Hoàng thái hậu.
Tuy nhiên theo Tống sử thì sự thực khác hẳn. Lý Thần phi vốn là do Lưu Hoàng hậu nhân một lần đi chùa gặp gỡ bèn đưa về hậu cung làm thị nữ. Thời gian đó, Lưu Hoàng hậu mới chỉ là Lưu Mỹ nhân. Tống Chân Tông đang sủng ái bà và muốn lập làm hoàng hậu nhưng quần thần phản đối vì bà xuất thân nghèo khó nên vua chưa có cách gì.
Đúng dịp đó, Lý thị nằm mộng thấy thần nhân báo rằng sẽ sinh long thai kỳ tử. Biết chuyện, vua Chân Tông và Lưu phi bàn nhau lập một kế. Vua cho vời Lý thị vào hầu một đêm. Quả nhiên sau đó Lý thị có thai.
Đến khi Lý thị sinh được hoàng tử, vua bèn tuyên bố là do Lưu phi sinh ra. Nhờ đó Lưu phi về sau được lập làm hoàng hậu. Năm 1022, con của Lý thị kế vị ngôi vua, Lưu hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu. Nhưng lúc đó vua vẫn chưa biết rõ mình là con Lý thị. Trong khi đó Lý thị lúc đó cũng đã được thăng lên tước Thuận dung và được điều đến trông nom lăng Vĩnh Định của Tống Chân Tông. Năm 1032 bà Lý thị bệnh nặng, Lưu thái hậu sách phong bà làm Thần phi và đưa Thái y đến cứu chữa nhưng bà không qua khỏi và qua đời ở tuổi 46.
Đến năm 1033, Lưu thái hậu cũng qua đời. Đến lúc đó, Yên vương Triệu Nguyên Nghiễm tiết lộ với vua về thân thế thật của Lý Thần phi và còn thêm bớt rằng Lưu thái hậu đã cướp vua về làm con mình và bỏ rơi Thần phi ở trung cung. Nhà vua xúc động quá độ bèn đến mộ Thần phi khóc lóc thảm thiết. Sau đó truy phong cho bà làm Trang Ý hoàng thái hậu.
Câu chuyện về xuất thân của vua Càn Long lại cũng là một sự tích đánh tráo con rất ly kỳ. Các bộ dã sử, tiểu thuyết và câu chuyện dân gian nói rằng vào ngày 13 tháng 8 năm Khang Hy thứ 50, tức năm 1711, Ung Thân Vương (tức Ung Chính sau này) có thêm một đứa con.
Cùng trong ngày hôm đó, vợ viên quan Trần Thế Quán cũng sinh con. Lúc bấy giờ Vương phi của Ung Chính sinh ra một công chúa còn vợ của Trần Thế Quán thì sinh ra một đứa con trai. Ung Chính nghe nói con trai của Trần Thế Quán sinh cùng ngày với công chúa của mình mới lệnh cho Trần mang con vào vương phủ của mình để xem mặt. Lệnh của vương gia không thể không nghe, Trần Thế Quán không còn cách nào khác đành phải mang con của mình đưa vào vương phủ.
Video đang HOT
Tuy nhiên, khi đứa bé được trả về cho nhà họ Trần thì ban đầu là con trai giờ lại hóa thành con gái. Trần Thế Quán hiểu rằng nếu nói ra chuyện này thì cả họ có thể bị giết sạch nên đành im lặng, “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Ít lâu sau đó, ông ta chán nản, cáo lão về quê. Đứa con trai nhà họ Trần bị đánh tráo vào phủ Ung Chính sau này chính là Hoàng đế Càn Long.
Chân dung hoàng đế Càn Long.
Những truyền kỳ dân gian này nhiều và mạnh đến mức bộ sách “Thanh cung thập tam triều diễn nghĩa” xuất bản năm 1925 của Hứa Tiếu Thiên khi viết về thân thế của vua Càn Long cũng chép thêm: “Càn Long vốn là con trai của Trần Các Lão (tức Trần Thế Quán) ở Hải Ninh, Chiết Giang. Sau bị Ung Chính dùng kế đánh tráo về làm con trai của mình. Càn Long lớn lên, biết được sự thực này từ miệng người vú nuôi của mình. Vì vậy, sau đó Càn Long mới mượn cớ vi hành phía Nam để đi Hải Ninh thăm cha mẹ đẻ của mình. Do vợ chồng Trần Các Lão đã qua đời từ lâu nên Càn Long chỉ còn cách đến trước mộ của hai người, dùng màn vàng che lại rồi làm lễ bái lạy tổ tiên”.
Chuyện tráo con ly kỳ trong cung đình Việt
Khác với Trung Hoa, ở Việt Nam, trong cung đình không có vụ đánh tráo con nào được ghi chép. Thậm chí ngay trong dã sử cũng ít thấy nói đến chuyện đánh tráo con. Tuy nhiên việc đón con người khác để nuôi thì lại là việc thường làm của các ông vua khi rơi vào cảnh hiếm muộn con cái.
Từ thời Lý Nhân Tông, ở tuổi đã khá lớn mà vẫn chưa có con, nhà vua từng ban chiếu cho đón con của các anh em mình vào cung nuôi dưỡng để trong số đó xem ai xuất sắc hơn thì chọn nối ngôi.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vào mùa đông năm 1117, vua Lý Nhân Tông xuống chiếu rằng: “Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có con, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử”. Sách lại chép thêm rằng: “Bấy giờ con Sùng Hiền là Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu và bèn lập làm Thái tử.
Đến đầu thời Trần, trong lúc triều đình mới xây dựng còn ngổn ngang việc chính sự thì hậu cung lại xảy ra một vụ việc do nguồn cơn từ việc vua chưa có con. Số là vua Trần Thái Tông lấy bà Lý Chiêu Hoàng đã 8 năm mà không có con. Thời phong kiến, con nối dõi là việc rất quan trọng. Người ta quan niệm “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” nghĩa là việc bất hiếu có ba việc thì không con nối dõi là tội lớn nhất.
Vua Trần Thái Tông. Tranh minh họa.
Bởi vậy ông quan trụ cột triều đình mà cũng là người hai tay tạo nên cư nghiệp nhà Trần là Trần Thủ Độ đã ép vua Trần Thái Tông lấy vợ của anh mình là Trần Liễu. Lúc đó vợ của Trần Liễu đang có bầu và sau này đứa con được sinh ra là Trần Quốc Khang.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, sự việc xảy ra năm 1237. Dưới áp lực của Trần Thủ Độ, vua Trần Thái Tông lấy vợ của anh mình vốn là công chúa Thuận Thiên nhà Lý làm vợ và lập làm hoàng hậu Thuận Thiên. Còn vợ mình là Lý Chiêu Hoàng bị giáng xuống làm Chiêu Thánh công chúa.
Vì sự việc này Trần Liễu phẫn uất nổi binh làm loạn nhưng bị quân triều đình đánh bại. Còn vua Trần Thái Tông vì bị ép làm việc này nên bỏ lên núi Yên Tử định đi tu nhưng về sau Trần Thủ Độ đuổi theo cố sức thuyết phục nên vua lại về. Trần Thái Tông sau khi về triều đã sinh được Trần Hoảng (tức Trần Thánh Tông sau này) cho nên ngôi vua không thuộc về Quốc Khang. Tuy vậy vua Thái Tông vẫn rất yêu quý Quốc Khang và đã phong đến tước Đại vương.
Như vậy, so với cung đình Trung Quốc, việc nuôi con người khác trong cung đình Việt mang ý nghĩa khác hơn nhiều. Nó không thuần túy vì lý do chính trị hoặc lợi ích của một cá nhân như trong các truyện đời Tống, đời Thanh nói ở trên.
Nam Khánh
Theo_Kiến Thức
Sự thật chuyện Trần Anh Tông phế phi khi vừa lên ngôi
Văn Đức Phu Nhân là chính phi được Trần Anh Tông cưới hỏi lúc ông còn là Thái Tử. Nào ngờ khi chồng lên ngôi, Văn Đức bị phế phi, em gái bà thế chân.
Văn Đức Phu Nhân là chính phi được Trần Anh Tông cưới hỏi lúc ông còn là Thái Tử. Nào ngờ khi chồng lên ngôi, Văn Đức bị phế phi, em gái bà thế chân.
Thuộc vào hàng lá ngọc cành vàng của nhà Trần, Văn Đức Phu Nhân là chính phi được Trần Anh Tông cưới hỏi lúc ông còn là Thái Tử. Những tưởng ngôi Hoàng Hậu đã sắp đến tay, nào ngờ lúc chồng lên ngôi cũng là lúc Văn Đức phải đau khổ vì bị chồng phế bỏ. Đâu là sự thật đằng sau quyết định lạ lùng trên của Trần Anh Tông?
Nhập cung làm thái tử phi
Văn Đức Phu Nhân là tước hiệu được phong sau này, còn tên thật của bà là gì thì không sách nào chép lại. Bà vốn họ Trần, là trưởng nữ của Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, cháu nội của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (cũng tức là Trần Hưng Đạo). Như vậy, bà là một thành viên trong tôn thất nhà Trần.
Nhà Trần là triều đại duy nhất trong lịch sử Việt Nam thực hiện chế độ nội hôn, tức là cho người trong hoàng tộc hôn phối với nhau. Lệ bất thành văn này được thực hiện liên tục trong suốt gần 200 năm triều Trần. Có thể nêu ra vài trường hợp tiêu biểu như: Trần Thánh Tông (là cháu gọi Trần Liễu bằng bác ruột) lấy con gái Trần Liễu, rồi Trần Nhân Tông (con Trần Thánh Tông) lại lấy con gái của Trần Hưng Đạo (con trai Trần Liễu)...
Hoàng Đế Trần Anh Tông (Trích từ bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, được vẽ vào thế kỉ XIV).
Mối nhân duyên đồng tộc giữa gia đình vua Trần với gia đình Trần Liễu còn tiếp diễn đến đời thứ ba. Năm 1292, khi Hoàng Tử trưởng là Trần Thuyên đã 16 tuổi, Trần Nhân Tông đã lập Trần Thuyên làm Hoàng Thái Tử. Việc thứ hai là phải chọn phi cho Thái Tử trong số con gái của người tôn thất. Lúc bấy giờ, con gái lớn của Trần Quốc Tảng đã đến tuổi cập kê, vẻ người cũng xinh xắn hiền dịu, vả lại, giữa hai gia đình có tình thông gia bền chặt, nên Trần Nhân Tông quyết chọn người con gái ấy làm Hoàng Thái Tử Phi. Gia đình Trần Quốc Tảng đương nhiên đồng ý. Hôn lễ được cử hành nhanh chóng và Văn Đức chính thức trở thành Thái Tử Phi triều Trần. Sách Đại Việt sử kí toàn thư thuật lại sự việc này như sau: "Tháng 3, ngày mồng 3 (năm Nhâm Thìn - 1292), lập Đông Cung Thái Tử Thuyên làm Hoàng Thái Tử. Lấy con gái trưởng của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng làm vợ cho Thái Tử".
Trở thành Thái Tử Phi là một chuyện trọng đại và vinh hạnh đối với Văn Đức cùng gia tộc. Khi Thái Tử nối ngôi thì Thái Tử Phi sẽ trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ (Hoàng Hậu). Trần Quốc Tảng sẽ trở thành ngoại thích của Hoàng Đế, uy thế và địa vị do đấy sẽ được nâng lên rất nhiều. Niềm vui của Văn Đức và gia đình càng lớn hơn khi một năm sau, Thái Tử đã được truyền ngôi.
Ngôi hậu cận kề bỗng chốc về tay em gái
Ngày mùng 9 tháng 3 năm Qúy Tị (1293), Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con trai để lên làm Thái Thượng Hoàng. Thái Tử Thuyên lên kế vị, tức là Hoàng Đế Trần Anh Tông (1293-1314). Thái Tử Phi ngay lập tức được phong là Văn Đức Phu Nhân. Địa vị của Phu Nhân thấp hơn Hoàng Hậu, nhưng với vợ cả của Hoàng Đế, từ Phu Nhân thăng lên Hoàng Hậu chỉ là chuyện một sớm một chiều. Trước đó, bà nội của Trần Anh Tông (tức là Hoàng Hậu của Trần Thánh Tông) cũng ở hoàn cảnh tương tự. Vì vậy, Văn Đức Phu Nhân không cảm thấy lo lắng chút nào.
Nhưng "niềm vui ngắn chẳng tày gang". Một thời gian ngắn sau đó, Văn Đức bất ngờ bị phế. Ngôi Hoàng Hậu sắp đến tay bỗng trở nên xa vời đối với Văn Đức. Và người thay chỗ Văn Đức không phải ai xa lạ mà chính là em gái của Văn Đức. Cũng sách Đại Việt sử kí toàn thư đã xác nhận: Khi Trần Anh Tông nối ngôi, "phong cho Phi làm Văn Đức Phu Nhân, rồi lại phế đi, lấy em gái của Văn Đức làm Thánh Tư Phu Nhân". Chính sử chỉ chép sự việc ngắn gọn như thế mà không cho biết nguyên nhân. Vậy rốt cuộc vì sao Văn Đức bị phế? Có uẩn khúc gì trong chuyện này chăng?
Đại Việt sử kí toàn thư cho biết thêm: Thánh Tư Phu Nhân được đưa vào cung thay chị năm 1293, nhưng mãi 16 năm sau, năm 1309, bà mới được phong làm Hoàng Hậu, hiệu là Thuận Thánh. Kết hợp chi tiết này với đoạn dẫn ở trên, chúng ta thấy có hai điểm nghi vấn trong cách hành xử của Hoàng Đế nhà Trần. Một là vì sao lấy em thay chị? Và hai là, vì sao phong Hoàng Hậu muộn? Hai điều này dường như liên quan mật thiết với nhau. Nếu có thể khám phá được điều ẩn sâu trong chúng, ta có thể bước đầu giải đáp được chuyện của Văn Đức.
Hoàng Đế Trần Anh Tông (Trích từ bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, được vẽ vào thế kỉ XIV)
Đối với vấn đề thứ nhất: vì sao lấy em gái thay chị? Khi phế Văn Đức, cha con Trần Anh Tông phải tìm chọn người khác thế chỗ. Nhưng lúc ấy, sức ảnh hưởng của gia tộc Trần Hưng Đạo - Trần Quốc Tảng trong triều rất lớn (cả nhà 5 cha con Trần Hưng Đạo đều mang tước Vương và đảm nhận những trọng trách của nhà nước. Họ lại được triều đình kính nể rất mực bởi những vũ công họ lập được trong hai cuộc vệ quốc chống Nguyên trước đó - năm 1285 và 1288). Đột ngột phế Văn Đức rồi lập một người con gái họ Trần khác sẽ khiến Trần Hưng Đạo phật lòng, không có lợi cho triều đình. Vả lại lúc ấy, em gái của Văn Đức cũng đã lớn và là người hiền đức dịu dàng. Có lẽ do suy nghĩ như vậy nên Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông đã quyết định phế Văn Đức mà như không phế, tức là lấy em gái của Văn Đức vào thay chỗ của chị. Điều này sẽ khiến Trần Hưng Đạo không thể nói gì.
Đối với vấn đề thứ hai: chuyện Thánh Tư được phong Hoàng Hậu muộn. Các Hoàng Đế nhà Trần trước Anh Tông khi lên ngôi đều lập ngay Hoàng Hậu. Vậy vì cớ gì mà Trần Anh Tông phá vỡ thông lệ ấy? Có thể lí giải được vấn đề này nếu đặt sự việc trong mối quan hệ với thế lực của gia đình Trần Hưng Đạo. Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông không muốn lập ngay Thánh Tư làm Hoàng Hậu cũng bởi e ngại thế lực của gia đình Trần Hưng Đạo ngày càng lớn, sẽ khó bề khống chế (tuy bấy giờ, họ không có biểu hiện gì của sự lạm quyền, cậy công). Phải mấy năm sau khi Trần Hưng Đạo mất (Trần Hưng Đạo mất năm 1300) thì Thánh Tư mới được phong Hậu, bởi lúc ấy (thời điểm năm 1309), gia tộc Trần Hưng Đạo chỉ còn Trần Quốc Tảng là có sức ảnh hưởng đáng kể nhưng không thể so với Trần Hưng Đạo, mà Trần Quốc Tảng cũng đã già yếu (ông mất năm 1313).
Như vậy, nếu xâu chuỗi hai vấn đề nêu trên vào trong thái độ và ứng xử của các Hoàng Đế nhà Trần đối với gia tộc Trần Hưng Đạo, chúng ta có thể vén được bức màn che lấp chuyện Văn Đức bị phế. Phế Văn Đức, vua Trần ngầm tỏ rõ uy quyền của mình đối với bên thông gia và bá quan trong triều. Lập Thánh Tư nhưng chậm phong Hậu, vua Trần cũng tỏ rõ sự khôn khéo trong giữ tình hữu hảo và kìm chế sức ảnh hưởng của gia đình Trần Hưng Đạo.
Bất ngờ mất ngôi Hoàng Hậu khi nó đã cận kề, số phận của Văn Đức Phu Nhân về sau thế nào, sử sách không hề ghi chép. Với Văn Đức, vui buồn hoán đổi cho nhau thật mau lẹ, khó mà lường được. Trước sau, bà chỉ là một nạn nhân đáng thương trong tính toán của vua Trần mà thôi.
Thanh Tuyền
Theo_Kiến Thức
Sở GDCK Hà Nội ký hợp tác với Sở GDCK Campuchia Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa HNX và CSX là sự kiện quan trọng khẳng định mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa hai thị trường chứng khoán Việt Nam - Campuchia nói riêng cũng như tình hữu nghị đặc biệt giữa hai quốc gia nói chung. Việc ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác được kỳ...