Vào hang cọp bắt hổ quy hàng!
Điệp báo An ninh T4 “nằm vùng” trong sào huyệt địch, cung cấp về những thông tin chuẩn xác để cách mạng có phương án tác chiến phù hợp. Lực lượng Trinh sát vũ trang khéo léo giáng cho địch những đòn chí mạng, tiêu diệt những tên Việt gian đầu sỏ… khiến địch hoang mang, lo sợ.
Khác với khối An ninh võ trang chuyên hoạt động ở nông thôn và vùng ven, địa bàn hoạt động của Trinh sát vũ trang – An ninh T4 là nội đô Sài Gòn – Gia Định. Khi ấy, trừ một bộ phận nhỏ (lãnh đạo, hậu cần) đứng chân ở vùng giải phóng, hầu hết cán bộ chiến sĩ trinh sát vũ trang đều vào sống, chiến đấu trong vùng địch kiểm soát. Do phải sống trong “hang cọp” nên các chiến sĩ phải tự tạo thế hợp pháp bằng việc có giấy tờ hợp lệ, sinh hoạt bình thường, khéo léo đóng nhiều vai từ giáo viên, sinh viên, học sinh cho đến người đạp xích lô, cắt tóc, bán hàng rong. Thậm chí, có chiến sĩ giả làm công chức, cảnh sát hay lính ngụy để có thể di chuyển trên mọi nẻo đường trong thành phố, tiếp cận mục tiêu.
Tháng 3/1961, Ban bảo vệ An ninh khu Sài Gòn – Gia Định (An ninh T4) được thành lập đã phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương chống càn quét, luồn sâu vào các ấp chiến lược, tham gia hoạt động trừ gian, diệt ác, bám đất bám dân, đào hầm bí mật ngay trong các ấp chiến lược… Ảnh: Cán bộ chiến sĩ An ninh T4 đào địa đạo phục vụ cho công tác chiến đấu và bảo vệ Khu ủy Sài Gòn – Gia Định, năm 1962.
Kế hoạch tiêu diệt tên Việt gian đầu sỏ
Sau khi lật đổ và giết chết Ngô Đình Diệm (ngày 2/11/2963), Mỹ chủ trương quân sự hóa Chính quyền Việt Nam cộng hòa để đẩy mạnh các nỗ lực chiến tranh. Mỹ lần lượt đưa một số tướng như Dương Văn Minh (1963-1964), Nguyễn Khánh (1964-1965), Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ (từ 1965 trở đi) lên cầm quyền ở Sài Gòn.
Tuy cùng làm tay sai cho Mỹ nhưng phe dân sự và quân sự thường đấu đá với nhau. Nhận thấy mối nguy từ mâu thuẫn này, Mỹ lập Hội đồng Quân Dân (5/7/1966) nhằm hòa giải hai phe và dựng Trần Văn Văn – một Việt gian khét tiếng làm chủ tịch. Trong bối cảnh đó, Ban An ninh T4 chỉ thị cho trinh sát vũ trang diệt Trần Văn Văn để loại bỏ một con bài đang được Mỹ nuôi dưỡng và có khả năng tiến cử làm Tổng thống.
Sáng 7/12/1966, trinh sát võ trang Trần Hoàng Sinh (Sáu Sinh) và Võ Văn Em (Tám Hùng) diệt gọn Trần Văn Văn tại ngã ba Phan Kế Bính – Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu). Văn chết, dư luận bàn tán xôn xao cho đây là cuộc thanh toán nội bộ. Vợ của Văn cũng tin rằng chồng mình bị phe quân sự sát hại nên viết thư yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu trả tự do cho trinh sát Võ Văn Em.
Sau chiến thắng trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng tiến công – tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, trinh sát vũ trang được Thành ủy (Phân khu 6), lực lượng vũ trang An ninh T4 còn gây cho địch nhiều phen choáng váng khi gây ra những vụ tấn công chớp nhoáng vào biệt thự của Nguyễn Văn Thiệu, chắn đánh tướng Nguyễn Văn Kiểm, tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống tại ngã tư Bà Huyện Thanh Quan – Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ).
Một góc Tổng nha Cảnh sát Đô thành bị chiến sĩ An ninh T4 đánh sập năm 1968.
Đáng chú ý nhất trong những chiến công oanh liệt đó chính là kế hoạch tiêu diệt Trần Văn Hương, Thủ tướng chính quyền Sài Gòn.
Video đang HOT
Trần Văn Hương là đối tượng chống phá cách mạng kịch liệt, từng 2 lần làm thủ tướng (1964-1965 và 1968-1969) sau đó làm phó tổng thống (1971-1975) rồi tổng thống (4/1975). Trung ương Cục miền Nam chỉ thị An ninh T4 phải diệt tên Việt gian đầu sỏ này.
Các trinh sát Nguyễn Công Tâm (Ba Hiệp), Nguyễn Văn Lệnh (Tư Hổ) chỉ huy trưởng và chỉ huy phó đã lên phương án chiến đấu: Khi xe chở Hương chạy đến ngã ba Nguyễn Du – Cường Để (nay là Đinh Tiên Hoàng), trinh sát Lê Việt Bình (Hai Đường) đóng vai người chạy xích lô sẽ đẩy chiếc xích lô ra đường cho nổ trái mìn định hướng (chứa 25kg chất nổ C4) đặt trong nệm tựa lưng xích lô. Trong khi đó, trinh sát Trần Hoàng Sinh (Sáu Sinh) và Chín Tợn cho nổ 2 quả mìn 2kg ở 2 vị trí khác nhau nhằm đánh lạc hướng, phân tán địch, còn Nguyễn Văn Cạn (Út Cạn) dùng súng Colt 45 bắn yểm trợ cho Hai Đường rút lui.
Sau 3 ngày “bày binh bố trận” nhưng xe của Hương không đi qua. Ngày 5/3/1969, xe của Hương xuất hiện. Ta đánh theo phương án đã định nhưng cả 3 quả mìn đều không nổ. Trận đánh không thành, Hai Đường, Út Cạn bị bắt nhưng hành động của các trinh sát đã gây tiếng vang lớn. Báo đài trong nước và quốc tế bình luận: Đoàn xe của Thủ tướng được hộ tống rất hùng hậu thế mà vẫn bị chặn đánh khi mới ra khỏi Dinh Thủ tướng (trên đường Thống Nhất nay là Lê Duẩn, gần Sở thú Sài Gòn) vài trăm mét.
Trinh sát tóc dài
Trong 2 năm 1970 – 1971, trinh sát vũ trang được lệnh diệt cảnh sát và mật vụ để tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đô thị, đặc biệt là của thanh niên, sinh viên, học sinh.
Nhiệm vụ tiêu hao sinh lực địch không chỉ có các chiến sĩ nam mà nữ trinh sát cũng vào cuộc quyết liệt. Các chị đã khéo léo cải trang, bám sát hàng ngũ quân địch để giáng những đòn bất ngờ.
Trưa một ngày trong tháng 2/1970, nữ trinh sát vũ trang Triệu Thị Hồng Loan (con của một thiếu tá cảnh sát chính quyền Sài Gòn) đưa xe Honda có chứa chất nổ C4 vào bãi đậu xe của Tổng nha Cảnh sát quốc gia trên đường Nguyễn Cảnh Chân. Lúc 11h40, khi đông đảo cảnh sát có mặt trong bãi xe, quả mìn 4kg C4 trên xe Honda phát nổ khiến 23 tên chết, 54 tên bị thương, hơn 100 xe cháy rực.
Chiếc xe chở Nguyễn Văn Bông – một trong những kẻ chống Cộng khét tiếng – bị trinh sát vũ trang An ninh T4 đánh cháy và tiêu diệt ngày 10/11/1971
Bốn tháng sau, nữ trinh sát Nguyễn Thị Mến (Năm Mến) lại đặt chất nổ có kíp định giờ (nghi trang trong thùng đựng rác) ở cổng sau của Tổng nha Cảnh sát quốc gia gần ngã ba Nguyễn Trãi – Phát Diệm (nay là Trần Đình Xu), diệt và làm bị thương 18 cảnh sát.
Tiếp đó, trong tháng 4/1971, nữ trinh sát Năm Mến tiếp tục 2 lần làm khuynh đảo lực lượng cảnh sát quốc gia. Lần đầu, chị dùng quả mìn 5kg diệt và làm bị thương 20 cảnh sát dã chiến của trại A-mắc đang tụ tập ở quán ăn trước trại (góc Nguyễn Kim – Trần Quốc Toản, nay là Ba Tháng Hai). Lần sau, chị cũng dùng chất nổ diệt và làm bị thương 25 cảnh sát đặc biệt của Ty cảnh sát Gia Định trong quán ăn đối diện bót Hàng Keo trên đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu).
Những trận đánh tiêu diệt Trần Quốc Bửu – Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam kiêm Chủ tịch đảng Công Nông Việt Nam và Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chính, Chủ tịch phong trào quốc gia cấp tiến… đã khiến cho nội bộ chính quyền Sài Gòn nghi kỵ nhau. Những trận đánh quyết định này đã làm xoay chuyển cục diện chiến trường, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công của chúng ta đi đến thắng lợi.
(Còn tiếp)
Ngô Công Quang
Theo Dantri
U4 - Điệp viên xuất sắc của tình báo quân...
Đinh Văn Đệ, một điệp viên xuất sắc của tình báo Việt Nam đã vượt lên nhiều nỗi đau thầm lặng của cá nhân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức giao phó.
Điệp viên U4 - Đinh Văn Đệ
Bảo tàng Tình báo Quốc phòng Việt Nam đang lưu giữ, trưng bày một lá thư mật của đồng chí Nguyễn Đức Trí, Trưởng phòng Tình báo B2 gửi điệp viên U4 đang hoạt động trong sào huyệt của Mỹ-ngụy với chức danh Chủ tịch Văn phòng Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa.
U4 tên thật là Đinh Văn Đệ, một điệp viên xuất sắc đã vượt lên nhiều nỗi đau thầm lặng của cá nhân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức giao phó.
Lá thư 4 trang, được bắt đầu chuyển đi từ ngày 22/5/1973. Lúc này Hiệp định Pari đã được ký kết, Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu gặp khó khăn do quân Mỹ rút dần, nguồn tài trợ của Mỹ dành để nuôi sống bộ máy ngụy quân, ngụy quyền đang giảm đi.
Trong thư, đồng chí Nguyễn Đức Trí đã giao nhiệm vụ trước mắt cho U4 trong tình hình mới: Tìm hiểu âm mưu, chủ trương của Thiệu đối phó với hội nghị dân sự, hội nghị quân sự 2 bên; địch nhận xét, đánh giá về phái đoàn ta, từng người trong phái đoàn ta như thế nào; cùng với đó là điều tra lai lịch một số nhân vật cộm cán trong chính phủ ngụy quyền.
Đồng chí Nguyễn Đức Trí cũng thông báo tình hình chung sau khi có Hiệp định Pa-ri, sự thất bại ngày càng rõ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và động viên U4 vững tâm khi có nhiều người thân, bạn bè giận ông khi làm "quan lớn" cho ngụy quân, ngụy quyền.
Bức thư có đoạn: "... Chúng ta biết chấp nhận cái nhục nhỏ để giành cái vinh lớn cho dân tộc, sẵn sàng chịu đựng sự hiểu lầm của người khác, kể cả người thân của mình. Ngành ta là công tác mật, càng che dấu được nhiều người càng tốt, càng kín đáo càng có lợi... để đi sâu, trèo cao, đi sát với địch, tìm hiểu bí mật của địch phục vụ lợi ích cách mang... Anh nên dũng cảm gạt ra ngoài và có biện pháp giải quyết khôn khéo nhất, có lợi nhất, tất cả những ràng buộc, vướng mắc không cơ bản để tập trung tinh thần và ý chí để thực hiện nhiệm vụ".
Bức thư của ông Nguyễn Đức Trí
Đinh Văn Đệ (Ba Đệ) - điệp viên U4 là ai ? Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những thông tin về ông mới dần được hé lộ. Ông là sĩ quan mang cấp Thượng úy của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, nhưng đã đi sâu vào hang ổ địch, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Ba Đệ sinh năm 1924, theo đạo Cao Đài, mồ côi cha từ nhỏ nhưng vẫn được mẹ nuôi cho ăn học hết trung học đệ nhất cấp. Sau tháng 8-1945, Đinh Văn Đệ theo cách mạng được vài tháng thì thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm Sài Gòn trở lại. Cuộc sống dưới ách cai trị của Pháp, xô đẩy anh vào Trường sĩ quan ngụy ở Thủ Đức. Dần dần, Đinh Văn Đệ được tướng tá ngụy tin dùng, về làm ở Bộ Tổng tham mưu ngụy, được Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ tin cậy, giao làm chánh văn phòng, thăng cấp đại úy; giữa năm 1957 được thăng vượt cấp lên trung tá. Sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, Đinh Văn Đệ được cử làm Thị trưởng Đà Lạt, rồi Tỉnh trưởng Tuyên Đức, tới năm 1966 thì được thăng cấp đại tá và chuyển sang làm tỉnh trưởng Bình Thuận. Cuối năm 1967, Đinh Văn Đệ từ chức tỉnh trưởng, ứng cử vào Hạ viện ngụy.
Từ trước khi Đinh Văn Đệ trúng cử vào Hạ viện của ngụy, tổ chức điệp báo của ta đã cử người liên hệ, tìm cách vận động ông trở lại phục vụ cách mạng. Ba Đệ từng bước tìm hiểu và giúp đỡ cách mạng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân ta càng tác động mạnh đến tư tưởng của Đinh Văn Đệ. Ông có người em trai là Đinh Văn Huệ, sĩ quan tình báo của ta, sau này là Đại tá, Cụm trưởng Cụm điệp báo VĐ2. Ba Đệ ngày càng tích cực hơn trong cộng tác, cung cấp tin tức cho cách mạng. Đến năm 1969, Đinh Văn Đệ chính thức nhận lời, quy ước liên lạc để làm "điệp viên nằm vùng" của ta.
Là người nắm giữ chức vụ quan trọng trong Quốc hội của ngụy quyền Sài Gòn, Ba Đệ đã cung cấp cho ta nhiều tin tức chiến lược quan trọng. Tháng 1/1975, sau khi ta giải phóng tỉnh Phước Long, tổ chức chỉ thị yêu cầu Ba Đệ tìm hiểu phản ứng của địch. Qua mối thân thiện với Tổng trưởng Quốc phòng, Ba Đệ đã được Cao Văn Viên cấp cho một giấy thông hành đặc biệt. Nhờ có giấy này mà Ba Đệ ra vào Bộ Tổng tham mưu một cách khá dễ dàng để tiếp cận với các sĩ quan trong cơ quan này. Nhờ đó, tin tức của Ba Đệ giúp ta khẳng định ngụy không có ý định tái chiếm Phước Long. Ba Đệ còn cho biết địch bỏ Phước Long nhưng sẽ cho không quân dội bom quần nát căn cứ của ta ở Lộc Ninh. Nhờ tin này, khi ngụy cho không quân tàn sát căn cứ Lộc Ninh, ta hạn chế được rất nhiều thiệt hại.
Trước chiến dịch Tây Nguyên, Ba Đệ với tư cách là một quan chức cấp cao của Quốc hội, đã có nhiều biện pháp khéo léo để đi thị sát, nắm tình hình quân ngụy. Nhờ đó, ông đã giúp ta trả lời hai vấn đề: Địch có nắm chắc vị trí đứng chân của Trung ương Cục miền Nam hay không? Có biết quân ta đang di chuyển phục vụ chiến dịch Tây Nguyên hay không? Những thông tin đó giúp ta nắm chắc địch, chủ động triển khai kế hoạch của chiến dịch.
Ngày 13/3/1975, hai ngày sau khi ta giải phóng Buôn Ma Thuột, Quốc hội Sài Gòn cử Ba Đệ và nhiều quan chức khác bay sang Mỹ nhằm thuyết phục Quốc hội Mỹ ủng hộ ngụy, tiếp tục rót tiền tài trợ. Trên diễn đàn Quốc hội Hoa Kỳ, Ba Đệ đã khéo léo phác thảo một bức tranh đen tối về tình hình chiến trường; về sự lục đục, rối ren của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; về sự sa sút của Quân lực Việt Nam cộng hòa... Những thông tin đó, vừa đúng theo yêu cầu của Thiệu, nhưng càng làm cho phe phản chiến trong Quốc hội Mỹ củng cố quan điểm ngừng tài trợ cho Nguyễn Văn Thiệu.
Những thông tin mà Ba Đệ công khai trước Quốc hội Mỹ, cùng với những tin tức thất bại liên tiếp của quân ngụy trên chiến trường Nam Việt Nam dồn dập dội về, đa số các nghị sĩ và kể cả Tổng thống Mỹ đều cảm nhận được không thể cứu vãn nổi chính quyền Sài Gòn. Những lời hứa viện trợ của Tổng thống Mỹ với Thiệu đã không thành hiện thực. Chính Nguyễn Văn Thiệu đã phải viết thư cầu xin Mỹ "nếu không viện trợ thì cho vay", nhưng hành vi van lơn của Thiệu cũng không thuyết phục được Quốc hội Mỹ mở hầu bao. Trước khi bị Mỹ ép từ chức, Thiệu đã cay đắng thừa nhận: Việt Nam Cộng hòa thực ra là chính phủ đánh thuê cho Mỹ, Mỹ bội ước, không viện trợ nữa thì thất bại của Việt Nam Cộng hòa là không tránh khỏi.
Xây dựng điệp viên U4 là một trong những thành công xuất sắc của tình báo cách mạng Việt Nam. Về phần mình, sau ngày đất nước thống nhất, ông Đinh Văn Đệ đã chọn cho mình một cuộc sống kín đáo, giản dị. Ông luôn quan niệm, những việc mình làm là trách nhiệm của một công dân yêu nước với Tổ quốc của mình.
Theo Qdnd.vn
Chính nghĩa không thuộc về chế độ "Việt Nam Cộng hòa" 30/4 là đại thắng vinh quang và đường hoàng của cả dân tộc. Thế nhưng một số người ở hải ngoại vẫn chưa thấu hiểu điều này. Cứ đến dịp lễ 30/4 hàng năm, người dân Việt Nam lại phấn khởi kỷ niệm chiến thắng chung của toàn dân tộc trước các thế lực ngoại xâm - chiến thắng vĩ đại đã giúp...