Vaccine Covid-19 Việt Nam được nghiên cứu như thế nào?
Vaccine Covid-19 được đánh giá qua 5 giai đoạn nhằm chứng minh hiệu quả bảo vệ, độ an toàn, theo tiến sĩ Đỗ Tuấn Đạt, Chủ tịch Công ty Vabiotech, đơn vị nghiên cứu vaccine.
- Quy trình nghiên cứu, đánh giá vaccine của Việt Nam như thế nào?
- Có ít nhất 5 công đoạn trong quá trình phát triển vaccine. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu, đánh giá, lựa chọn dự tuyển vaccine. Mục tiêu là lựa chọn trong phòng thí nghiệm vùng kháng nguyên có tính sinh miễn dịch và an toàn khi sử dụng trên người sau này.
Sau đó, vaccine được đánh giá tiền lâm sàng, tức là đánh giá hiệu quả thử nghiệm trên động vật. Khi an toàn trên động vật, vaccine tiếp tục được đánh giá trên người. Khâu này gồm ba giai đoạn 1, 2 và 3 gồm thử nghiệm trên hàng chục người, hàng trăm người và hàng nghìn người.
Khi đạt thử nghiệm trên người, vaccine được cấp phép và được sử dụng đại trà. Tuy nhiên quá trình đánh giá chưa dừng lại. Các chuyên gia nghiên cứu và phát triển vaccine sẽ tiếp tục đánh giá để đảm bảo vaccine đủ an toàn khi được sử dụng rộng rãi trên người.
Nhà sản xuất nào cũng phải trải qua quy trình phát triển vaccine 5 giai đoạn như vậy. Chúng tôi cũng không ngoại lệ, Công ty TNHH MTV Vaccine và Sinh phẩm số 1 (Vabiotech) luôn tuân thủ chặt chẽ quá trình phát triển, đánh giá vaccine trên động vật, trên người, cấp phép và theo dõi sử dụng sản phẩm.
Tiến sĩ Đỗ Tuấn Đạt, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Vaccine và Sinh phẩm số 1 (Vabiotech). Ảnh: Giang Huy.
- Những khó khăn nào xuất hiện trong quá trình nghiên cứu sản xuất vaccine Covid-19?
- Vaccine là sự đánh đổi giữa nguy cơ và lợi ích. Nếu vaccine gây nguy cơ ảnh hưởng thấp, trong khi lợi ích mang lại nhiều như cộng đồng được bảo vệ, miễn dịch, thì nước nào cũng mong muốn trong thời gian ngắn nhất có vaccine.
Tuy nhiên, dù có yêu cầu về tốc độ, mặt thời gian ra sao, yếu tố an toàn của vaccine phải đặt lên hàng đầu. Trong đó, đánh giá quan trọng nhất của vaccine là tìm hiểu mức độ bảo vệ và nguy cơ trên nhóm người có nguy cơ lây nhiễm. Vaccine sẽ bảo vệ nhóm có nguy cơ lây nhiễm như thế nào, liệu khi tiêm vaccine họ có bị bệnh nặng hơn hay không… rất cần câu trả lời cho những câu hỏi này.
Vaccine Covid-19 đặc biệt hơn, do cơ thể không chỉ có miễn dịch đơn thuần bằng kháng thể mà còn có miễn dịch tế bào – nguồn gốc của những phản ứng mạnh hơn trong cơ thể, ví dụ cơn bão Cytokine khi nCoV tấn công. Vì vậy sản xuất vaccine phải rất thận trọng, cân bằng giữa đáp ứng miễn dịch kháng thể và miễn dịch tế bào.
Vaccine phải có hiệu quả bảo vệ trên người. Hiệu quả bảo vệ của vaccine được xác định dựa trên đối tượng sau tiêm vaccine mắc bệnh hoặc không mắc bệnh, trên các cơ địa khác nhau. Vì vậy, việc thử nghiệm vaccine cần rất nhiều tình nguyện viên ở độ tuổi và cơ địa khác nhau. Nếu số lượng quá ít và không ở vùng có virus lưu hành, nhà nghiên cứu sẽ không nhìn thấy được hiệu quả bảo vệ hoặc tình trạng bệnh sau khi tiêm vaccine, chưa thể hiện được hết các phản ứng ở nhiều cơ địa khác nhau. Rất cần thiết nhìn thấy và xác định tỷ lệ gây ra các phản ứng phụ sau khi tiêm vaccine.
Ngoài ra, kết quả đánh giá sẽ chính xác hơn khi thử nghiệm vaccine với nhiều người, độ tuổi đa dạng. Ví dụ, liệu các đối tượng nhạy cảm như trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai… có được dùng vaccine không, an toàn không.
Video đang HOT
Vaccine còn cần đạt tiêu chí bảo vệ trong thời gian dài, ít nhất 6 tháng trở lên. Thời gian thử nghiệm cũng cần kéo dài để đánh giá đạt tiêu chí này hay chưa. Nếu nghiên cứu mới chỉ có 2-3 tháng, liệu có ổn không khi cho phép sử dụng vaccine và nhiều câu hỏi khác sẽ còn bỏ ngỏ.
- Đánh giá của ông về các vaccine tiềm năng của nước ngoài như thế nào?
- Chúng tôi sẽ xem xét các vaccine, như của Nga chẳng hạn, ở khía cạnh có đủ số liệu hoặc minh chứng rõ ràng trong các thử nghiệm lâm sàng hay không.
Hiện nay, Vabiotech chủ yếu xem xét về cách đánh giá và kết quả đánh giá ở trên người của các vaccine Covid-19 trên thế giới. Qua đó, chúng tôi xây dựng cách thức đánh giá của vaccine Covid-19 Việt Nam ở người. Song song với quá trình phát triển vaccine, chúng tôi học cách thử nghiệm vaccine của Đại học Oxford, adenovirus vaccine của Trung Quốc hoặc Nga. Adenovirus dùng trong sản xuất vaccine là loại virus thông thường, không còn khả năng phát triển hoặc lây nhiễm. Virus này được sử dụng làm chất nền để gắn những protein gai đặc hiệu của nCoV trên bề mặt, giúp hệ miễn dịch nhận diện và chống lại nCoV.
Bên cạnh đó, nhóm đang nghiên cứu các quy định của Việt Nam dành cho vaccine đại dịch. Trước đây, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn một cần tiến hành trên hàng chục người, lâm sàng giai đoạn hai trên hàng trăm người và lâm sàng giai đoạn ba trên hàng nghìn người. Số lượng thử nghiệm có thể nhiều hơn hay ít hơn, tùy thuộc vào thời điểm đưa ra vaccine, vaccine sử dụng làm đối chứng, loại vaccine sẵn có khác trên thị trường khi thử nghiệm.
Nếu có vaccine khác để so sánh, ta sẽ rút ngắn thời gian hơn, số lượng thử nghiệm ít hơn, vì vaccine khác đã có kết quả rồi. Nếu như thực sự phải nghiên cứu vaccine từ đầu, nghiên cứu kỹ lưỡng từng chỉ số thì sẽ mất nhiều thời gian. Và quan trọng nhất, vaccine phải được đánh giá trong vùng có dịch, vì như vậy mới thấy rõ hiệu quả bảo vệ.
Mẫu máu chuột thí nghiệm thử dự tuyển vaccine Covid-19. Ảnh: Giang Huy.
- Vaccine Covid-19 Vabiotech đang nghiên cứu ở giai đoạn nào?
- Tại Vabiotech, sau khi có kết quả thử nghiệm dự tuyển vaccine trên chuột, nhóm đang phát triển sản xuất vaccine từ quy mô phòng thí nghiệm sang quy mô sản xuất lớn hơn. Vaccine đại dịch cần số lượng rất lớn. Công nghệ sản xuất trước đây chỉ có thể đáp ứng 10-20 triệu liều một năm, trong khi vaccine đại dịch có thể cần đáp ứng 10-20 triệu liều một tháng. Không thể sản xuất cầm chừng hoặc sản xuất số lượng ít, sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu, đây là thách thức với nhóm nghiên cứu.
Khi có quy trình sản xuất ở quy mô lớn hơn, chúng tôi sẽ quay lại đánh giá trên động vật. Tối ưu hóa trong sản xuất như thế nào là yêu cầu cực khó. Đây cũng là thách thức nữa với chúng tôi, bởi chưa từng phát triển hay sản xuất vaccine đại dịch trước đây.
Nhóm nghiên cứu đang cố gắng ít nhất đến cuối năm nay sẽ xong quá trình đánh giá quy mô sản xuất lớn, có sản phẩm thử nghiệm trên động vật. Sau đó, sẽ mất ít nhất 1-2 tháng để đánh giá hiệu quả trên động vật. Chúng tôi mong muốn không chỉ thử nghiệm trên động vật ở Việt Nam mà còn đánh giá đối chứng trên động vật ở nước ngoài, ví dụ Mỹ. Dự tính cuối năm nay sẽ hoàn tất và có thể tiến hành thử nghiệm trên người vào năm sau.
Nhóm nghiên cứu đang cố gắng phát triển vaccine nhanh nhất có thể. Vaccine này không nhằm chạy đua với thế giới mà hướng tới đáp ứng nhu cầu trong nước, tự chủ, làm nền tảng để phát triển vaccine đại dịch, đối phó các chủng virus corona cũng như các tác nhân gây bệnh khác trong tương lai.
Chúng tôi lựa chọn công nghệ gene trên vector virus, tức là sử dụng một virus không gây bệnh làm vỏ, bên trong cài đặt vùng gene của virus gây bệnh, tạo thành giá thể để đưa vùng kháng nguyên của virus này vào cơ thể, tạo đáp ứng miễn dịch, để sản xuất vaccine Covid-19 của Vabiotech.
Vector virus giúp tận dụng kinh nghiệm làm vaccine cũ như cách làm nhân nuôi tế bào, nhân nuôi và tinh chế virus… đồng thời tiếp cận với công nghệ tái tổ hợp mới tạo ra các protein sẵn có tiêm vào trong cơ thể, phù hợp với điều kiện của những nước đang phát triển trong sản xuất vaccine đại dịch.
Nhiều doanh nghiệp Đức quan tâm tới thị trường Việt Nam
Thị trưởng Tschentscher nhấn mạnh, Hamburg luôn mở cửa và sẵn sàng nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác song phương với Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực mà hai bên có thế mạnh.
Ảnh minh họa. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Tại buổi làm việc với đoàn công tác Đại sứ quán Việt Nam tại Đức, lãnh đạo chính quyền thành phố Hamburg, Phòng Công nghiệp và Thương mại (IHK) Hamburg, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Á-Thái Bình Dương (OAV) cùng nhiều doanh nghiệp Đức đang đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam đã bày tỏ sự quan tâm đối với tiềm năng của thị trường Việt Nam, đồng thời tin tưởng rằng Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam ( EVFTA) sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn nữa cho các doanh nghiệp Đức.
Tại cuộc trao đổi với Tiến sỹ Peter Tschentscher, Thị trưởng thứ nhất của Hamburg, Đại sứ Nguyễn Minh Vũ nhấn mạnh mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam và Đức nói chung cũng như với Hamburg nói riêng; khẳng định Đức luôn là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong Liên minh châu Âu (EU), với kim ngạch trao đổi thương mại đạt 14 tỷ euro trong năm 2019.
Về quan hệ Việt Nam-Hamburg, Đại sứ đánh giá hai bên đã có nhiều bước phát triển tốt đẹp, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, vận tải biển, đóng tàu, du lịch...
Hamburg - đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam trong số 16 bang của Đức - là cửa ngõ quan trọng để hàng hóa Việt Nam vào thị trường Đức và châu Âu.
Năm 2019, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hamburg đạt trên 2,324 tỷ euro, tăng 10,8% so với năm trước đó.
Đại sứ cho rằng tiềm năng hợp tác giữa hai bên vẫn còn rất lớn, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải biển, năng lượng tái tạo, trong đó thế mạnh của Hamburg là điện gió, đào tạo nguồn nhân lực...
Nhân dịp này, Đại sứ trân trọng cảm ơn Thị trưởng Tschentscher cũng như chính quyền Hamburg đã luôn tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng người Việt Nam hội nhập vào đời sống kinh tế-xã hội của Hamburg, cũng như là cầu nối góp phần thắt chặt mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Đại sứ bày tỏ mong muốn trong thời gian tới, Hamburg tiếp tục tăng cường các hoạt động kết nối, hợp tác với các địa phương ven biển của Việt Nam như Đà Nẵng, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... nhằm chia sẻ kinh nghiệm và tận dụng các tiềm năng sẵn có để có thể bổ trợ cho nhau, thúc đẩy hơn nữa trao đổi thương mại giữa hai bên.
Phát biểu tại cuộc gặp, Thị trưởng Tschentscher đánh giá cao quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp và những tiềm năng hợp tác to lớn giữa hai bên.
Ông Tschentscher nhấn mạnh với mạng lưới đối tác rộng khắp trên thế giới cũng như khoảng hơn 100 cơ quan lãnh sự nước ngoài trong thành phố, Hamburg luôn mở cửa và sẵn sàng nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác song phương với Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực mà hai bên có thế mạnh.
Thị trưởng Hamburg cũng đánh giá cao sự hội nhập năng động của cộng đồng người Việt trong khoảng 118 cộng đồng người nước ngoài ở Hamburg; khẳng định nhiều người Việt Nam là chủ các doanh nghiệp thành đạt, nhà hàng nổi tiếng và cộng đồng đã có những đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế cũng như sự đa dạng văn hóa của Hamburg.
Tại cuộc gặp với lãnh đạo IHK Hamburg, OAV cùng nhiều doanh nghiệp Đức đang đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Đại sứ Nguyễn Minh Vũ đã thông tin về tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2020, khẳng định Chính phủ Việt Nam đang tiếp tục thực hiện cải cách các thủ tục hành chính, quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa nhằm thu hút hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài.
Đại sứ bày tỏ tin tưởng rằng việc EVFTA có hiệu lực từ tháng 8/2020 và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA) đang chờ phê chuẩn sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam cũng như các đối tác của Việt Nam.
Đại sứ quán sẵn sàng lắng nghe những ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp Đức nhằm thúc đẩy hơn nữa hiệu quả hợp tác giữa hai bên; phối hợp, tham gia tổ chức các sự kiện xúc tiến kinh tế, thương mại, quảng bá đầu tư và du lịch giữa Việt Nam và Hamburg.
Về phần mình, Chủ tịch IHK Hamburg, Giáo sư Norbert Aust, đánh giá cao sự phát triển năng động của Việt Nam trong gần 30 năm qua, khẳng định Việt Nam là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư của châu Âu nói chung và của Đức nói riêng.
Hiện nay, hơn 200 công ty của Hamburg có mối quan hệ kinh tế với Việt Nam và khoảng 60 công ty có chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đối tác liên doanh ở Việt Nam.
Ông Norbert Aust bày tỏ tin tưởng rằng quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hamburg sẽ tiếp tục phát triển tốt đẹp hơn nữa trong thời gian tới.
Trong khi đó, Chủ tịch OAV Hans-George Frey khẳng định trọng tâm hoạt động của OAV là hợp tác với các nước ASEAN - trung tâm tăng trưởng quan trọng hiện nay ở châu Á.
Ông bày tỏ ấn tượng với sự phát triển vượt bậc của Việt Nam trong vài thập kỷ qua, đồng thời khẳng định mối quan hệ hợp tác gắn bó lâu dài giữa hai nước thông qua các dự án hợp tác phát triển song phương, đặc biệt trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, môi trường và đào tạo nghề.
Theo đánh giá của OAV, trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành điểm đến kinh doanh hấp dẫn đối với các công ty của Đức.
Với việc Chính phủ Việt Nam đang không ngừng nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, sự ổn định của đời sống kinh tế-xã hội trong nước cũng như trong bối cảnh EVFTA đã có hiệu lực, Chủ tịch OAV bày tỏ hoàn toàn tin tưởng rằng Việt Nam là một đối tác tiềm năng, đáng tin cậy trong khu vực và mối quan hệ Đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức sẽ ngày càng phát triển tích cực.
Đại diện các doanh nghiệp Đức, trong đó có nhiều công ty đã đầu tư vào Việt Nam từ những năm 1990, cùng chia sẻ những kinh nghiệm đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam trong các lĩnh vực khác nhau như thực phẩm, cà phê, thiết kế, may mặc, xuất-nhập khẩu...
Các ý kiến đều nhất trí rằng EVFTA có hiệu lực sẽ giúp loại bỏ các rào cản về thuế quan, mở ra các lĩnh vực mới cho đầu tư, mang đến cho doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp của châu Âu cơ hội tiếp cận gần hơn nữa thị trường của nhau, qua đó góp phần thúc đẩy thương mại, tăng trưởng cho cả hai bên.
Bên cạnh đó, đại diện các doanh nghiệp đều đánh giá cao sự đổi thay tích cực của Việt Nam trong những năm gần đây, bày tỏ mong muốn Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi giúp các nhà đầu tư yên tâm kinh doanh, mang lại lợi ích cho cả hai nước.
Những người tham dự cũng ấn tượng trước những thành quả mà Việt Nam đạt được trong việc phòng chống đại dịch COVID-19 và bày tỏ hy vọng các quy định hạn chế nhập cảnh, cách ly... sẽ sớm được dỡ bỏ để nối lại các hoạt động giao thương giữa hai nước.
Thu hồi bản đồ Việt Nam không có Hoàng Sa, Trường Sa lọt vào hội thảo điện Theo đại diện ban tổ chức, hiện các tài liệu in thiếu quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tại hội thảo về điện mặt trời áp mái đã được thu hồi. Chiều 25/8, ban tổ chức chương trình xin lỗi về sự cố tài liệu ở hội thảo "Phát triển điện mặt trời áp mái tại Việt Nam" tổ chức sáng cùng ngày....