Uy lực của tên lửa diệt hạm shaddock Việt Nam
Tổ hợp tên lửa chống tàu bờ biển thế hệ thứ hai “Redut” với uy lực lượng nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, có thê tiêu diêt bât kỳ mục tiêu nào.
“Redut” là loại tên lưa có uy lực nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, có thể diệt gọn một tàu chiến thuộc bất cứ lớp tàu nào.
Tên lửa Shaddock được phát triển dưới sự chỉ đạo của Trung tướng V.M. Chelomeya tại Trung tâm thiết kế và thử nghiệm OKB-52 theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô 903-378 ngày 16/8/1960 trên cơ sở của tên lửa chống hạm cấp chiến dịch – chiến thuật R-35.
Tổ hợp được thiết kế nhằm tiêu diệt tất cả các loại chiến hạm nổi. Tổ hợp tên lửa bờ biển nhận được mã hiệu P-35B. Khối quân sự NATO đặt mã hiệu là SS-N-3 “Shaddock”.
Tổ hợp tên lửa Shaddock từ lâu đã nằm trong trang bị của quân chủng hải quân Việt Nam. Đã có thông tin về việc Việt Nam tiến hành cải tiến, nâng tầm bắn tên lửa Shaddock lên tới 900 km, tầm tiến công có thể bao phủ hầu hết diện tích Biển Đông.
Tổ hợp tên lửa được lắp đặt ra trên khung gầm thân xe cơ bản bốn cầu ZIL-135K (sau khi chuyển giao sản xuất hàng loạt thân xe cho nhà máy Bryansk – được mang mã hiệu là: BAZ-135MB). Nhà phát triển chính của hệ thống điều khiển tổ hợp “Redut” là trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm NII-10 (Viện Nghiên cứu “Altair”). Động cơ phản lực của tên lửa được phát triển bởi Trung tâm thiết kế và thử nghiệm OKB-300.
Tên lửa chống tầu Redut.
Các thử nghiệm tổ hợp tên lửa F-35B được tiến hành vào mùa thu năm 1963. Theo Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô viết 631-202 vào ngày 11/8/1966. Tổ hợp tên lửa “Redut” được biên chế vào lực lượng vũ trang Liên xô. Trung đoàn tên lửa phòng thủ độc lập số 10 thuộc lực lượng hải quân vùng Baltic được tiếp nhận các tổ hợp tên lửa “Redut” vào năm 1972. Trung đoàn được biên chế lại và hình thành tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển độc lập tăng cường số 1216 (OBRD). Ngày 01/11/1974 Tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển số 1216 đã được tăng cường biên chế thành trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển (OBRP) số 844. Trong Hạm đội Biển Bắc, trung đoàn tên lửa bờ biển độc lập số 501, đóng quân trên bán đảo Rybachiy đã được biên chế chuyển loại tên lửa “Redut” trong 1971-1974.
Ngày 16/7/1961 Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô Viết đã ban hành nghị định để tái cơ cấu lực lượng phòng thủ bờ biển các tổ hợp tên lửa cố định “Utes” sử dụng tên lửa “Sopka” được thay thế hoàn toàn bằng các tổ hợp tên lửa P-35B. Lần phóng tên lửa P-35B đầu tiên của trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển số 362 (OBRP) được thực hiện vào ngày 30/5/1971. Chính thức, hai tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển tại Balaklava được trang bị tên lửa P-35B, theo Nghị quyết của hội đồng bộ trưởng Liên bang ngày 28/4/1973. Hiện nay hai tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển này tại Balaklava được chuyển cho Ukraine, có thông tin cho rằng, để đáp ứng yêu cầu của Mỹ, các tên lửa Redut đã bị phá hủy. Trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển trên đảo Kil’din được nhận tên lửa Redut thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu tiên chuyển loại tên lửa P-35B vào năm 1976, và giai đoạn thứ hai – năm 1983.
Trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển, được trang bị tên lửa Redut thuộc Hạm đội Biển Đen đã nhiều lần cơ động di chuyển từ Crimea đến Bulgaria bằng chính các phương tiện được biên chế. Ở Bulgaria, trung đoàn chiếm lĩnh vị trí mà từ đó có thể quản lý toàn bộ vùng Dardanelles và biển Aegean.
Năm 1974, trên cơ sở của tổ hợp P-35 các viện nghiên cứu và trung tâm thiết kế thử nghiệm đã phát triển tổ hợp 3M44 “Progress”. Sự thay đổi chính trong tên lửa là hệ thống dẫn đường và chỉ thị mục tiêu trên tên lửa được nâng cấp và tăng cường khả năng chống nhiễu cũng như chọn lọc hình ảnh. Các nhà sản xuất đã phát triển hệ thống mạng điện tử trên tên lửa hoàn toàn mới và động cơ phóng tên lửa mới, nâng cao hiệu suất phóng đạn. Tăng cường khả năng tấn công bí mật bất ngờ và khó bị bắn hạ bằng lực lượng phòng không đối phương được thực hiện bằng giải pháp kéo dài đường bay giai đoạn cuối của tên lửa ở độ cao thấp so với mặt nước biển.
Tổ hợp “Progress”, so với P-35, đã áp dụng các giải pháp kỹ thuật mới như sau:
Lắp đặt đài radar tự tìm mục tiêu trên tên lửa có khả năng chống nhiễu cao;
Lắp đặt hệ thống tự động chuyển chế độ tự tìm kiếm mục tiêu và lựa chọn mục tiêu trong trường hợp mất thông tin liên lạc từ đài chỉ huy phóng tên lửa;
Giảm độ cao quỹ đạo bay của tên lửa ở giai đoạn cuối từ 100-120 m xuống đến 20-40 m;
Tăng chiều dài của giai đoạn cuối cùng từ 20 km đến 50 km;
Đưa vào đầu đạn tên lửa bộ phận logic tự lựa chọn mục tiêu;
Tăng cường số lượng tên lửa trong một loạt phóng đạn đến 16 tên lửa khi bắn với nhiều phương tiện mang (xe phóng tên lửa, tầu phóng tên lửa).
Sau những thử nghiệm cấp nhà nước trong năm 1976-1977 Tổ hợp “Progress” đã được đề xuất lắp đặt trên các tàu thuộc dự án 58 và 1134, cũng như các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển “Redut” và “Utes”. Chính thức, tên lửa “progress” đã được đưa vào biên chế từ năm 1982. Sản xuất tên lửa cho các tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển được tiến hành trong những năm từ 1982-1987.
Trên các phiên bản Redut xuất khẩu ra nước ngoài hoặc được cấp giấy phép sản xuất chưa được biết có được xuất khẩu hoặc cung cấp giấy phép sản xuất hay không?. Khả năng xuất khẩu tên lửa Progress có lẽ rất hạn chế, và giấy phép sản xuất nó không thể được chuyển giao cho bất cứ nước nào.
Bộ Quốc phòng Mỹ đặt mã hiệu cho tên lửa này là – SSC-1B (Surface-to-Surface Cruise Type 1 Lớp thứ hai), mã hiệu của NATO – Sepal.
Toàn bộ tổ hợp tác chiến bao gồm:
Xe phóng tên lửa tự hành SPU-35B (STC-35B)
Tên lửa chống tầu P-35B (3M44)
Xe chỉ huy lắp hệ thống điều khiển bắn “Skala” (4R45) và radar.
Tên lửa P- 35 có thể thu nhận thông tin chỉ thị mục tiêu từ các máy bay tác chiến trên biển như TU-95D, TU-16D, trực thăng Ka-25C (radar “Uspeh”)
Biên chế tổ chức phóng trong một khẩu đội tên lửa có ba xe tự hành phóng tên lửa, 5-6 khẩu đội (15-18 xe tự hành phóng tên lửa) hình thành tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển, 3 tiểu đoàn cùng với các lực lượng và phương tiện đảm bảo công tác tham mưu, kỹ thuật, hậu cần được biên chế thành lữ đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển (45 – 54 xe phóng tên lửa tự hành).
Theo các thông số tên lửa biên chế cho các hạm đội năm 1988 :
Hạm đội Baltic – 6 tiểu đoàn
Hạm đội Biển Đen – 5 tiểu đoàn
Hạm đội Biển Bắc – Tiểu đoàn 3
Hạm đội Thái Bình Dương – 5 tiểu đoàn
Triển khai sẵn sàng chiến đấu của tổ hợp tên lửa P-35 Redut
Hoạt động của tổ hợp tên lửa Redut P-35.
Tên lửa được đưa vào ống phóng dạng container trên xe phóng đạn tự hành đồng thời các công tác chuẩn bị khí tài tác chiến được thực hiện tại khu kỹ thuật. Thời gian chuyển trạng thái từ hành quân cơ động sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu khoảng 1,5 giờ. Các xe phóng tên lửa tự hành và các xe chỉ huy, tham mưu điều hành tác chiến, trinh sát mục tiêu đồng thời tiến vào chiếm lĩnh tuyến bắn trong trận địa phòng thủ bờ biển. Xe phóng tên lửa khi đã chiếm lĩnh trận địa nâng ống phóng đạn (container) vào góc phóng – 20o.
Đài radar trinh sát lữ đoàn rà quét phát hiện mục tiêu, xác định tọa độ mục tiêu và truyền thông số tọa độ mục tiêu xuống xe chỉ huy tiểu đoàn, trạm radar chỉ huy cấp tiểu đoàn theo dõi và bám mục tiêu, xác định mục tiêu ( địch – ta) bằng thiết bị nhận biết địch – ta. Khi đã xác định mục tiêu địch cần tiêu diệt. Hệ thống điều hành tác chiến lựa chọn xe phóng đạn và phóng tên lửa.
Phóng tên lửa.
Video đang HOT
Khi phóng tên lửa P-35, động cơ turbin phản lực hành trình được khởi động, tên lửa được phóng ra khỏi ống phóng nhờ lực đẩy của động cơ tăng tốc phản lực sử dụng nhiên liệu rắn. Sau khi được phóng ra khỏi ống phóng (container), tên lửa mở cánh ổn định. Nhờ lực đẩy của động cơ phản lực tăng tốc, tên lửa P-35 lấy độ cao và tốc độ hành trình. Sau khi động cơ tên lửa đốt cháy hết nhiên liệu, tên lửa sẽ cắt các động cơ tăng tốc đồng thời sử dụng chủ yếu là động cơ turbin phản lực. Tên lửa hạ độ cao xuống độ cao hành trình. Hệ thống đạo hàng quán tính sẽ điều khiển tên lửa giữ tốc độ, độ cao và hướng bay tên lửa.
Khi tên lửa bay đến khu vực mục tiêu, đầu dẫn tên lửa bật radar quang ảnh chủ động, phát hiện mục tiêu, tên lửa chụp ảnh mục tiêu và gửi ảnh mục tiêu lên màn hình của trắc thủ tên lửa. Trắc thủ xác định mục tiêu cần tiêu diệt, đầu dẫn tự động của tên lửa khóa mục tiêu và dẫn đường tên lửa tấn công tiêu diệt. Đầu đạn tên lửa P-35 được lắp đặt khối thuốc nổ phá lớn, bộ phận gây nổ kích nổ khối thuốc nổ mạnh phá hủy mục tiêu khi tên lửa lao vào và va chạm vào mục tiêu.
Điểm mạnh của tên lửa P-35 Redut
Tên lửa chống tầu Redut có đầu đạn mang khối thuốc nổ ủy lực rất lớn, tên lửa cơ động với tốc độ rất cao (tốc độ siêu âm), điều đó làm tăng khả năng đột phá tuyến phòng không của đối phương, tăng xác suất tiêu diệt mục tiêu , bằng một đạn hoặc bằng nhiều đạn cùng phóng từ nhiều bệ phóng (trường hợp tầu đối phương có hỏa lực phòng không rất mạnh).
Dù được chế tạo đã lâu và đã ngừng sản xuất, nhưng các tổ hợp tên lửa nâng cấp 3M44 “Progress” với các tính năng kỹ chiến thuật mạnh mẽ vẫn được sử dụng trong lực lượng hải quân Liên bang Nga. Nhờ có tầm tác chiến rất xa nên một khẩu đội tên lửa Redut dưới sự hỗ trợ thông tin mục tiêu từ các cấp có khả năng phòng thủ hàng trăm km bờ biển. Uy lực lượng nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, một tên lửa có thể tiêu diệt một tầu chiến thuộc bất cứ lớp tầu nào.
Sức công phá dữ dội của tên lửa P-35 Redut trên mạn tầu mục tiêu.
Nhược điểm:
Tên lửa đã quá thời hạn sử dụng lâu, có khối lượng và kích thước quá lớn, chính vì vậy nên các xe phóng tên lửa chỉ mang được một đạn. Xe phóng tên lửa hoàn toàn thụ động, do đó không có khả năng tự phát hiện mục tiêu và tiêu diệt mục tiêu. Thời gian triển khai sẵn sàng chiến đấu quá lớn. Tầm bay xa của tên lửa cũng gây những khó khăn nhất định trong chỉ thị mục tiêu.
Tính năng kỹ chiến thuật tổ hợp tên lửa.
Tên lửa
Tầm bắn, km
25 – 270 – 460
Tầm bay hành trình của tên lửa, m
400 / 4000 / 7000
Trần bay tên lửa giai đoạn cuối, m
100
Tốc độ bay hành trình của tên lửa, chỉ số
1,5
Góc tìm kiếm xác định mục tiêu, độ
80
Thời gian triển khai chiến đấu khi hành tiến, phút.
trên 30 phút.
Kích thước tên lửa, m:
- chiều dài
9,45 (9,75; 9,88; 10)
- sải cánh
2,6
- chiều rộng tên lửa khi gập cánh
1,544
- đường kính tên lửa max
1,0
- chiều cao tên lửa
1,5
Khối lượng tên lửa rỗng, kg
2330
Khối lượng cất cánh , kg.
4 500
Đầu đạn
Nổ phá hoặc hạt nhân
Khối lượng thuốc nổ, kg
~ 1000
Đương lượng nổ hạt nhân, k
350
Phương pháp phóng
Phóng góc nghiêng, góc phóng 20o
Các bộ phận điều khiển bay
Cánh cản khí động học
Hệ thống dẫn đường bay tên lửa
Đạo hàng quán tính radar quang học chủ động.
Đông cơ hành trình
urbin phản lực
Nhiên liệu
Dầu hỏa
Động cơ phóng phản lực
Hai động cơ tên lửa phản lực nhiên liệu rắn
Lực đẩy, kgf
2 30 000
Thời gian động cơ phóng phản lực, s
2
Xe phóng tên lửa tự hành
Loại
Tự hành bánh hơi
Khung gầm cầu xe
8 8
Chủng loại xe
ZIL-135K (BAZ-135MB)
Trọng lượng xe phóng tên lửa, kg
21 000 (không có tên lửa. 18 000)
Kích thước toàn xe khi hành quân, m:
- chiều dài
13,5 (11,5)
- chiều rộng
2,86 (2,8)
- chiều cao
3,53 (3,0
Tốc độ hành trình trên đường, km/h
40
Dự trữ hành trình, km
500
Kíp trắc thủ, người.
5
Thiết kế của Redut (4K44) cho thấy, tên lửa mặc dù có những khiếm khuyết nhất định, nhưng khả năng nâng cấp, cải tiến rất lớn. Các hướng nâng cấp, tăng cường khả năng tác chiến của tên lửa Redut là:
- Là tên lửa hành trình có tầm bắn xa, có thể nâng cấp trang bị hệ thống điểu khiển bay, dẫn đường và chỉ thị mục tiêu của tên lửa theo hướng tự động hóa, đồng bộ hóa đồng thời lập trình hóa nhiều tên lửa tấn công cho một mục tiêu. Hoặc một tên lửa có thể tự động lựa chọn tấn công mục tiêu khi mất liên lạc với đài chỉ huy theo nhiệm vụ được giao
- Tác chiến liên kết phối hợp giữa các loại tên lửa khác nhau trên các phương tiện mang khác nhau dựa trên cơ sở đồng bộ điều hành tác chiến C4IRS.
- Tăng khả năng cơ động của tên lửa theo hướng 2 tên lửa có thể bay theo hai quỹ đạo khác nhau, đặc biệt là giai đoạn cuối theo phương pháp ngẫu nhiên, trần bay thấp từ 20 m – 40 m so với mặt nước biển.
- Ứng dụng công nghệ stealth (sơn phủ tên lửa bằng các lớp sơn chống bức xạ radar, tránh khả năng phát hiện sớm tên lửa) công nghệ sơn này đã nghiên cứu thành công tại Việt Nam.
Những cải tiến, nâng cấp tên lửa Redut hoàn toàn nằm trong khả năng của các nước đang có P-35 trong biên chế, như Việt Nam. Do quá trình nâng cao hiệu suất tác chiến của tên lửa hoàn toàn không phụ thuộc vào phần cứng (động cơ, cấu hình) mà chỉ thay đổi các trang thiết bị điều khiển học, các thiết bị điện tử, máy tính trên đầu tự dẫn và hệ thống truyền thông.
Theo xahoi
Sức mạnh 'lá chắn thép' Bastion trấn giữ biển Đông
Việt Nam sở hữu Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển có khả năng tấn công mục tiêu xa đến 300 km và bảo vệ một tuyến bờ biển chống tác chiến đổ bộ của đối phương lên đến 600 km.
Đoàn 681 Hải quân, Quân chủng Hải quân được trang bị Tổ hợp tên lửa bờ Bastion và Tổ hợp ra đa bờ Monolit-B. Bastion-P là một trong những hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển cơ động hiện đại nhất trên thế giới hiện nay.
Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion Việt Nam đang sở hữu.
Cùng với các loại vũ khí hiện đại khác như các phi đội máy bay SU-27/30 tác chiến không và biển tàu ngầm kilo phục kích dưới mặt nước các loại tàu hộ vệ tên lửa cao tốc trang bị mạnh như Molniya 'tia chớp' và hộ vệ hạm tàng hình Gepard 3.9 tác chiến trên mặt nước các hệ thống tên lửa có thể cất giấu trong các containner như Club-K hay Kh-35 đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ, nhất là tổ hợp tên lửa Bastion-P có sức mạnh hủy diệt ghê gớm... Có thể giúp Việt Nam xây dựng chiến lược 'chống tiếp cận' hết sức hữu hiệu trước các nguy cơ đến từ hướng biển, đồng thời tạo sức mạnh răn đe với bất kỳ kẻ thù nào dám manh động xâm phạm chủ quyền biển đảo của nước ta.
Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion được bắt đầu thiết kế và phát triển trong thời kỳ Xô Viết vào những năm 80. Nhưng chỉ vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 mới được đưa vào trong biên chế và xuất khẩu ra nước ngoài. Một số tổ hợp đã được Việt Nam và Syria đặt mua. Khách hàng tiềm năng tiếp theo là Velezuela.
Đầu năm 2011, Hạm đội Biển Đen, Lữ đoàn pháo binh - tên lửa số 11 (tên gọi Anapa) nhận được tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển cơ động thứ 3 "Bastion". Hai tổ hợp trước đã được biên chế vào lữ đoàn vào năm 2010. Lữ đoàn 11 được trang bị trong biên chế trước đây là: Pháo tự hành phòng thủ bờ biển SU-130mm A-222 và tổ hợp tên lửa chống tàu "Redoubt".
Đây là tổ hợp vũ khí rất mạnh, một trong những tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển tốt nhất, có khả năng cơ động cao, sử dụng tên lửa chống tàu có tốc độ siêu âm 3M55 "Yakhont" ("Onyx").
Tổ hợp tên lửa Bastion.
Tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển cơ động Bastion có khả năng tiêu diệt tất cả các tàu chiến, tàu vận tải, tàu xuống các loại, tấn công các mục tiêu đơn lẻ hoặc tấn công các cụm tầu thuyền chiến đấu, đồng thời có thể tấn công các cụm binh lực đổ bộ đường biển, đường không, các cụm binh lực trang bị nặng cho các hoạt động đột phá. Tổ hợp có thể hoạt động trong điều kiện hỏa lực đối phương rất mạnh, khả năng gây nhiễu điện từ và chế áp điện tử của đối phương cao nhất. Tổ hợp tên lửa Bastion có khả năng tấn công mục tiêu xa đến 300 km và bảo vệ một tuyến bờ biển chống tác chiến đổ bộ của đối phương lên đến 600 km.
Biên chế của tổ hợp: Tên lửa chống tàu K-130 "Yakhont" trong các thùng phóng dạng container Xe phóng đạn (SPM K340P) trên thân xe Kamaz- 43101, với biên chế kíp xe là 5 chiến sĩ, hoặc trên xe MZKT-7930 kíp xe 3 người Xe điều khiển tên lửa MBU K380P trên thân xe MZKT-65 273 với kíp xe điều khiển là 4 người Thiết bị quản lý thông tin kỹ thuật đầu đạn tên lửa với thiết bị điều khiển bay trên tên lửa đất đối biển Hệ thống điều khiển hỏa lực tự động ASBU Tổ hợp trang bị hậu cần kỹ thuật Xe vận tải và nạp đạn TLV K342P được trang bị cần cẩu có trọng tải 5,9 tấn dùng để tiếp đạn cho xe K340P Xe hỗ trợ trực sẵn sàng chiến đấu Hệ thống huấn luyện Hệ thống máy bay trực thăng chỉ thị mục tiêu.
Bên cạnh cấu hình Tổ hợp nêu trên, còn thiết bị hỗ trợ ngắm bắn như: Hệ thống ra-đa ngắm bắn bờ biển tự hành Monolit-B, hay hệ thống ngắm bắn đường không 1K130E (gồm ra-đa Oko băng sóng đề-xi-mét gắn trên máy bay trực thăng Ka-31).
Biên chế tiêu chuẩn của tổ hợp Bastion: 4 ống phóng tên lửa thẳng đúng trên hai xe vận tải-bệ phóng đạn "Yakhont", kíp lái 3 1-2 xe điều khiển hỏa lực (kíp lái 5 người) 1 xe hỗ trợ trực sẵn sàng chiến đấu 4 xe vận tải nạp đạn Bổ sung cho tổ hợp Bastion có thể có rada tìm kiếm và và phát hiện mục tiêu tầu trên mặt biển, chỉ thị mục tiêu Monolit B trên xe, tầu cơ động và trên máy bay trực thăng chiến đấu.
Thời gian triển khai sẵn sàng chiến đấu 5 phút. Sau đó Tổ hợp có thể tấn công liên tục 8 tên lửa. Cơ số đạn của tổ hợp: max 24 tên lửa "Yakhont" cho 2 bệ phóng. Thời gian phóng liên tiếp là 2,5s cho một tên lửa. Sau khi triển khai sẵn sàng chiến đấu, Tổ hợp sẽ trực chiến đấu trong vòng 24 tiếng không cần sự hỗ trợ của tranh bị dự phòng. Thêm xe hỗ trợ trực sẵn sàng chiến đấu là 30 ngày. Thời gian khai thác sử dụng tổ hợp 10 năm.
Sơ đồ tác chiến của hệ thống tên lửa chống tầu Bastion-P.
Tên lửa chống tàu "Yakhont" ("Onyx") được thiết kế và chế tạo theo sơ đồ khí động học với những cách hình thang vuông gấp lại được và mở ra khi phóng, để ổn hướng và điều hướng, đồng thời các van điều hướng luồng phụt, tại phần đáy đạn và hệ thống tạo luồng hút tại chóp mũi đạn, giúp đạn tên lửa tự ổn định và xoay theo hướng phóng dự kiến. Tên lửa có hệ thống dẫn đường tổ hợp (hệ thống đạo hàng quán tính và hệ thống tự dẫn radar ở giai đoạn cuối của quỹ đạo bay của tên lửa. Tên lửa dùng động cơ phản lực công xuất lớn, bay với tốc độ siêu âm (động cơ phản lực dòng khí thẳng với ống phóng tăng tốc sử dụng thuốc phóng dạng rắn. Động cơ có bộ phận nạp khí đồng trục ở đầu tên lửa và ống chụp đầu tên lửa hình nón.
Thông số kỹ thuật tên lửa "Yakhont" ("Onyx"): Chiều dài: 8,0 m Đường kính: 0,70 m Sải cánh: 1,7 m Khối lượng: 3000 kg Ống phóng container kín chiều dài: 8,9 m Đường kính: 0,72 m Khối lượng với ống phóng container TNS: 3.900 kg Khối lượng đầu đạn: 200 kg Tốc độ trên cao: 750 m/s (2,6 ) Tốc độ trên mặt nước tầm thấp: 680 m/s (2 ) Tầm bay của tên lửa: Khi tên lửa bay với tầm cao thay đổi theo quỹ đạo bay: (Giai đoạn đường bay cuối- 40 km)- 300 km Khi tên lửa bay thấp với tầm bay cao là: 15 m - 120 km Tầm bay cao của tên lửa 10-14.000 m Động cơ phản lực: SPVRD Lực đẩy: () 4000 Khối lượng dầu T-6, 200 kg Ống tăng tốc phản lực: Thuốc phóng dạng rắn Khối lượng động cơ phản lực, 500 kg.
Hệ thống điều khiển: Trong giai đoạn bay hành trình - Đạo hàng quán tính Trong giai đoạn cuối của quỹ đạo - dẫn đường bằng radar đơn xung, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết Tầm phát hiện mục tiêu của radar: 50 - 70 km Góc tìm kiếm và phát hiện mục tiêu ± 45° Thời gian sẵn sàng hoạt động của radar khi bật: 2 phút Khối lượng của radar - 85 kg Điều kiện hoạt động của radar tự dẫn - biển động cấp 7.
Những đặc điểm kỹ chiến thuật của tên lửa "Yakhont" ("Onyx"): Tấn công mục tiêu ngoài đường chân trời Chế độ tự động hóa hoàn toàn (bắn - quên) Có nhiều quỹ đạo bay khác nhau (thấp cao và thấp) tốc độ bay siêu âm trên tất cả các tầm bay khác nhau Khó nhận biết bằng radar trên boong tầu do sử dụng công nghệ tàng hình (stealth) Có thể sử dụng trên mọi phương tiện mang: tầu nổi, tầu ngầm và các phương tiện phóng trên mặt đất.
Tên lửa chống tàu "Yakhont" ("Onyx") lúc đầu được chế tạo như một tên lửa đa dụng, được lắp trên máy bay, tàu chiến nổi, tàu ngầm, đồng thời trên các bệ phóng trên mặt đất: Tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển Bastion Tàu ngầm dự án 885 "Ash"
Tàu phóng tên lửa cỡ nhỏ dự án 1234.7 "Rolling" Các tàu tuần biển dự án 22350 "Đô đốc Gorskov", kế hoạch đóng 20 chiếc tàu loại này (10 tàu trong 10 năm).
Sơ đồ hoạt động của tên lửa chống tàu Yakhont.
Nguyên tắc hoạt động của tên lửa "Yakhont"
Sau khi tên lửa được phóng khỏi ống phóng, động cơ tăng tốc sử dụng nhiên liệu rắn khởi động, ống khởi động được đặt trong buồng đốt của động cơ tên lửa, trong vòng vài giây, ống tăng tốc sẽ tăng tốc tên lửa lên đến 2M. Sau khi cháy hết, ống tăng tốc được đẩy ra ngoài bằng luồng khí và bắt đầu hoạt động của động cơ hành trình chính. Động cơ đẩy tên lửa bay với tốc độ 2,5M theo quỹ đạo đường đạn đã được nạp trong máy tính trên tên lửa.
Radar tự dẫn trên đầu đạn có thể khóa mục tiêu như tầu tuần dương trên khoảng cách đến 75 km. Sau khi phát hiện và khóa mục tiêu. Máy tính sẽ hạ độ cao của tên lửa xuống còn 5-10 m so với mặt nước biển, làm giảm đến tối thiểu khả năng đánh chặn của hệ thống phòng không trên tầu đối phương trong trường hợp địch phát hiện ra.
Chế độ hạ độ cao bay của tên lửa thấp hơn độ cao phát hiện của radar làm gián đoạn khả năng bám tên lửa của các loại vũ khí phòng không, tốc độ siêu âm và độ cao thấp trong giai đoạn bám và tự dẫn tấn công mục tiêu làm cho đối phương không thể chặn đánh được tên lửa.
Lần thứ hai radar được bật lên để bắt mục tiêu trong giai đoạn cuối, dẫn đường và đưa tên lửa vào mục tiêu. Thời gian ngắn và tầm xa của radar cho phép sử dụng các radar đơn xung có độ chính xác không cao. Lần bật radar thứ nhất ở độ cao cho phép xác định mục tiêu, lựa chọn mục tiêu của từng tên lửa theo cụm tàu và loại trừ các mục tiêu giả. Đây là tính năng rất hiệu quả của Yakhont. Tương tự như máy bay cảm tử của Nhật trong thế chiến thứ 2, vụ tấn công của tên lửa Yakhont với số lượng lớn đảm bảo khả năng tiêu diệt các tàu xuồng rất cao. Và do tốc độ cao> 2M. Khả năng tiêu diệt tên lửa ở tầm gần là không thể.
Một trong những đặc trưng của Yakhont là chương trình phần mềm nhân tạo chạy trên máy tính đầu đạn. Nó cho hiệu quả chiến đấu rất cao khi bắn loạt tên lửa. Trong trường hợp bị tấn công ồ ạt với số lượng lớn các tàu, chương trình trên đầu đạn tự chọn và đánh giá độ quan trọng của mục tiêu, lựa chọn tọa độ và phương thức tấn công. Đồng thời, chương trình cũng lựa chọn khả năng chống lại tác chiến điện tử và lựa chọn phương án tránh góc bắn của hỏa lực phòng không đối phương để tấn công tầu.
Khi tiêu diệt mục tiêu trong đội hình, các tên lửa còn lại chuyển hướng sang các mục tiêu khác, loại trừ khả năng 2 tên lửa cùng tiêu diệt một mục tiêu. Tính năng chiến thuật này được đảm bảo bằng máy tính trên tên lửa có hình ảnh của các loại tàu và các thông số khác, cho phép xác định loại cụm tàu và tàu (vận tải, tuần dương, tầu tuần tiễu, tầu sân bay, và tàu xuồng của lực lượng đổ bộ biển, từ đó tấn công mục tiêu quan trọng nhất).
Trong điều kiện phát triển sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Hải quân, các tổ hợp tên lửa này cho phép bảo vệ vững chắc vùng biển, bờ biển của quốc gia. Đồng thời, cũng phải sử dụng tác tổ hợp tên lửa có tầm bắn gần, dưới 120 km Bal-E, tên lửa chống tầu Club-M có tầm bắn đến 150 km. Đồng thời phát triển các loại pháo tự hành bờ biển, tạo thành hệ thống phòng thủ lớp vững chắc vùng bờ biển.
Theo VNE
Mỹ sẽ mang đạn pháo thông minh đến Hàn Quốc Báo Chosun Ilbo ngày 5.10 đưa tin, lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc dự định đưa vào sử dụng những quả đạn pháo điều khiển chính xác, có thể phá hủy các khẩu đội pháo tầm xa của CHDCND Triều Tiên gần khu vực phi quân sự. Quân đội Hàn Quốc từng xem xét việc mua những quả đạn pháo XM982 Excalibur sau...