Uy lực của “Calibr” và “Onhiks”-tên lửa chống hạm Liên Xô-Nga
Ngày 21/10/1967, tàu khu trục “ Eilat” của Israel đã bị tên lửa chống hạm Xô Viết P15 “Termit” phóng từ tàu tên lửa Ai Cập đánh chìm.
Cách đây tròn 48 năm, ngày 21/10/1967, tàu khu trục “Eilat” của Israel đã bị tên lửa chống hạm Xô Viết P-15 “Termit” phóng từ tàu tên lửa Ai Cập đánh chìm. Đây là lần đầu tiên tên lửa chống hạm tham chiến và sự kiện này đánh dấu bước khởi đầu cho một thời đại mới trong chiến lược quân sự biển nói chung và phát triển vũ khí hải quân nói riêng.
Nhân sự kiện này, xin giới thiệu một số thông tin vắn tắt về tên lửa chống hạm.
Cuộc tấn công làm rung động thế giới
Tàu khu trục “Eilat” vốn là của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được hạ thủy năm 1943 và mang tên là HMS Zealous. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai HMS Zealous thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các tàu vận tải trên tuyến đường biển Bắc cực chở vũ khí và trang bị vào cảng Murmansk cho Liên Xô. Năm 1955, Israel mua (hoặc được tặng) HMS Zealous và đổi tên thành “Eilat”.
Trong cuộc khủng hoảng kênh đào Suez (1956), “Eilat” đã thực hiện một vụ tấn công táo bạo – công kích áp mạn tàu khu trục “Ibrahim I” của Ai Cập khi tàu này mạo hiểm tiến đến gần cảng “Haifa” của Israel để pháo kích cảng này. Chiếc tàu Ai Cập nói trên “bị bắt làm tù binh”, được đưa vào trang bị cho Hải quân Israel và đổi tên thành “Haifa”.
P-15 Termit -Tên lửa đối hạm dày dạn chiến công nhất của Liên Xô
Ngày 21/10/1967, “Eilat” với kíp thủy thủ 199 người thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu dọc bờ biển bán đảo Sinai (Israel chiếm được của Ai cập trong cuộc Chiến tranh 6 ngày – tháng 6/1967 mà người viết đã có dịp giới thiệu với bạn đọc). Khi còn cách cảng Port-Said (của Ai Cập) 15 hải lý, “Eilat” bị radar Ai Cập phát hiện.
Quân Ai cập nhanh chóng hành động. Tàu tên lửa “Comar” đang có mặt trong cảng lần lượt phóng 4 quả tên lửa P-15 “Termit” với giãn cách 5 phút/quả vào “Eilat”. Thủy thủ tàu “Eilat” cố tiêu diệt tên lửa chống hạm có tốc độ dưới âm đang tiếp cận tàu bằng pháo phòng không, nhưng vô hiệu.
Quả tên lửa đầu tiên rơi đúng khoang máy, quả thứ hai lao thẳng vào sườn trái của tàu. Mặc dù đã ở tình thế không còn hy vọng nhưng kíp thủy thủ vẫn tiếp tục tìm cách cứu tàu. Nhưng quả tên lửa thứ ba đã phá hủy phần mũi của tàu và “Eilat” không còn một cơ hội sống sót nào. Tàu bốc cháy dữ dội và đạn dược trên tàu bắt đầu phát nổ. Chỉ huy tàu ra lệnh cho thủy thủ rời chiếc tàu đang chìm.
Khi tàu khu trục đã gần như chìm hẳn, quả tên lửa thứ tư phát nổ ngay giữa các xuồng và bè cứu hộ của các thủy thủ Israel. Chính quả tên lửa thứ tư này đã gây ra nhiều tổn thất sinh mạng nhất cho các thủy thủ Israel.
Trong tổng số 199 thủy thủ, có 47 người thiệt mạng, 90 bị thương. Các máy bay lên thẳng và tàu cứu hộ của Israel đã phải cứu các thủy thủ còn sống và vớt xác dưới làn mưa đạn pháo của Quân Ai Cập.
Vụ tàu khu trục “Eilat” bị tên lửa chống hạm đánh chìm cho thấy sức mạnh hủy diệt của loại vũ khí này. Từ thời điểm này (21/10/1967), tên lửa chống hạm được đầu tư phát triển rất nhanh. Những nước đầu tiên (sau Liên Xô) tập trung nghiên cứu phát triển loại vũ khí này là Thụy Điển và Israel.
Nhanh hơn, xa hơn, thấp hơn
Tên lửa chống hạm P-15 được thiết kế tại Phòng thiết kế “Dubna” của Tổng công trình sư Aleksandr Iakovlevich Bereznhiak. Hoàn thành các thử nghiệm và được đưa vào trang bị năm 1960. Tên lửa “Termit” P-15 là tên lửa chống hạm đầu tiên trên thế giới .
Tên lửa này có thiết bị gia tốc sử dụng thuốc nổ đẩy tên lửa ra khỏi container phóng, động cơ hành trình phản lực nhiên liệu lỏng. Tên lửa có tốc độ hành trình đến 320m/s.
Đây là loại vũ khí rất mạnh thời kỳ đó – đầu tác chiến bộc phá có trọng lượng gần 500 kg. Một biến thể của P-15 là P-15M, ngoài đầu tác chiến bộc phá còn có đầu tác chiến hạt nhân công suất 15Kt. Tầm bắn của tên lửa đến 40 km, còn sau cải tiến lên tới 80 km.
Tên lửa được điều khiển bằng hệ thống quán tính. Ở quỹ đạo cuối , đầu tự dẫn hồng ngoại và radar được kích hoạt để bám mục tiêu.
Nhưng đầu những năm 70, các chuyên gia Israel đã phát hiện được gót chân Asin của loại tên lửa – đầu tác chiến có khả năng chống nhiễu kém. Năm 1973, trong “Cuộc chiến ngày phán xét” (hay còn gọi là cuộc chiến tranh tháng mười – từ 06 đến 24/10/1973) Israel đã sử dụng các phương tiện tác chiến điện tử và bẫy nhiệt để đối phó với P-15. Kết quả là Ai Cập và Syria trong cuộc chiến tranh này đã phóng 54 quả P-15 nhưng không một quả nào bay đến được mục tiêu.
Theo_Báo Đất Việt
Video đang HOT
Vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh vùng Vịnh (6)
Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ và đồng minh đã bắn 216 tên lửa hành trình Tomahawk tấn công các mục tiêu cố định, giá trị cao Iraq.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ và đồng minh đã bắn 216 tên lửa hành trình Tomahawk tấn công các mục tiêu cố định, giá trị cao trên lãnh thổ Iraq.
Cuộc chiến tranh vùng Vịnh kéo dài hơn một năm, nhưng lượng tên lửa, bom, đạn... mà cả hai bên tham chiến sử dụng tương đương với trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Nhiều loại vũ khí mới được thủ nghiệm ở chiến trường này gây ra những tai họa về môi trường sinh thái không thể thống kê nổi và khó có thể khắc phục trong thời gian ngắn.
Trong thời gian chiến tranh, khoảng một triệu thùng dầu thô đổ ra vịnh Péc-xích, hơn 570 giếng dầu bị đốt cháy làm ô nhiễm nghiêm trọng vùng trời, đất đai, nguồn nước, sinh vật... ở vùng Vịnh cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái các khu vực khác.
Kỳ 6: Tên lửa, bom, đạn trong Chiến tranh vùng Vịnh
Dưới đây là một số loại tên lửa, đạn pháo mà các bên tham chiến đã sử dụng:
BGM -109C/D Tomahawk
Tên lửa hành trình chiến lược Tomahawk do hãng Mc.Donnell Douglas và General Dynamics của Mỹ chế tạo, đưa vào trang bị lần đầu năm 1985. Nó được trang bị chủ yếu cho Hải quân Mỹ để tấn công các mục tiêu cố định mặt đất.
Loại tên lửa này dài 6,4m, đường kính 0,53m, sải cánh 2,62m, trọng lượng phóng 3,1 tấn. Tên lửa Tomahawk được trang bị động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy cho tốc độ cận âm 885km/h và có tầm bắn khoảng 2.500km. Đầu đạn của tên lửa là dạng nổ phá, nặng 450kg, có thể mang đạn con hoặc đạn hạt nhân.
Tàu tuần dương Mỹ phóng tên lửa Tomahawk.
Dù tầm bắn xa tới hàng nghìn km, nhưng Tomahawk có độ chính xác tuyệt vời nhờ hệ thống dẫn đường cực kỳ hiện đại
Độ chính xác đến mức "điên rồ" của nó so với các tên lửa hành trình khác được thể hiện qua việc "người điều khiển chỉ cần ở cách mục tiêu hàng nghìn km (thậm chí xa hơn) và nhấn nút, quả lên lửa được phóng đi và chờ, nó sẽ lọt qua cửa sổ và phá hủy mục tiêu".
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và đồng minh đã triển khai khoảng 700 quả tên lửa Tomahawk, bố trí trên hơn 30 tàu mặt nước và tàu ngầm. Trong thực tế, Mỹ đã bắn 216 quả mang đầu đạn thông thường BGM-109C (đạn nổ phá 450kg) và BGM-109D (mang 166 bom con hiệu ứng kết hợp), đặc biệt thích hợp để đánh phá các mục tiêu cố định và quan trọng.
Tên lửa chống hạm SEA SKUA
Tên lửa chống hạm SEA SKUA do hãng British Aerospace của Anh chế tạo với sự phối hợp của hãng Marconi. Loại tên lửa này được đưa vào trang bị từ năm 1983 trong Hải quân Hoàng gia Anh.
Đây là loại tên lửa chống tàu hoạt động trong mọi thời tiết, có thể bay sát mặt biển, chủ yếu trang bị cho các trực thăng hải quân.
Phóng tên lửa Sea Skua từ trực thăng.
Tên lửa nặng 145kg, dài 2,5m, đường kính thân 0,25m, sải cánh 0,72m, tầm bắn 15-18km với đầu nổ phá 20km.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chủ yếu trang bị cho trực thăng Lynx của Hải quân Anh.
Tên lửa chống hạm Harpoon
Hệ thống tên lửa hành trình chống tàu, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết Harpoon do công ty McDonnell Douglas (nay là Boeing Defense, Space & Security) phát triển và giới thiệu lần đầu từ năm 1977. Tính tới năm 2004 thì Boeing đã chuyển giao cho Quân đội Mỹ và các nước đồng minh khoảng 7.000 quả Harpoon.
Tên lửa diệt hạm Harpoon rời bệ phóng.
Harpoon được phát triển, trang bị cho nhiều nền tảng: máy bay (AGM-84, không có tầng động cơ tăng cường nhiên liệu rắn); tàu chiến mặt nước (RGM-84, lắp tầng đẩy tăng cường); tàu ngầm (UGM-84, lắp tầng đẩy tăng cường và đặt trong container kín nước phóng qua ống phóng ngư lôi cỡ 533mm) và biến thể dùng cho khẩu đội phòng thủ bờ.
Đạn tên lửa tiêu chuẩn Harpoon nặng 691kg (với tầng tăng cường), dài 3,8m (biến thể phóng trên không) hoặc 4,6m (biến thể phóng từ tàu chiến), đường kính thân 0,34m, lắp đầu nổ nặng 221kg.
Tên lửa trang bị động cơ tuốc bin phản lực cho tầm bay 124km, tốc độ bay 864km/h, pha cuối bay ở độ cao cực thấp, dùng đầu tự dẫn radar chủ động.
Đạn pháo thông minh M712 Copperhead
Đạn pháo thông minh M712 Copperhead cỡ 155mm được Martin Maritta phát triển cho Lục quân Mỹ để công phá các mục tiêu giá trị cao, xe tăng, pháo tự hành. Nó có thể bắn từ các loại pháo xe kéo, pháo tự hành cùng cỡ 155mm.
Đạn pháo M712 chuẩn bị công phá tăng M41.
M712 được điều khiển giai đoạn cuối bằng đầu tìm laser với thiết bị chiếu mục tiêu bên ngoài (thường là bộ chiếu laser mặt đất AN/TVQ-2, bộ chiếu laser xách tay PAQ-1, môđun laser vạn năng, thiết bị định tầm laser) đặt trên mặt đất, trên xe chiến đấu, máy bay, trực thăng. Ngoài ngòi nổ va đập, đạn còn được trang bị ngòi hẹn nổ và hệ kích nổ bằng cảm biến. Trong thử nghiệm có độ tin cậy tới 92%.
Đạn pháo M712 nặng 63,5kg (phần thuốc nổ 22,5kg), tầm bắn 3-16km.
Tại Chiến tranh vùng Vịnh, loại đạn này được trang bị cho lựu pháo tự hành M109, lựu pháo kéo M198. Quân đội Mỹ thường dùng máy bay trinh sát OV-10 và trực thăng OH-58 để chỉ thị mục tiêu.
Tên lửa không đối không tầm xa AIM-54 Phoenix
AIM-54 là tên lửa không đối không tầm xa do hãng Hughes Aircraft của Mỹ sản xuất và được đưa vào trang bị cho Hải quân Mỹ năm 1971. Trước khi tham chiến ở vùng Vịnh, AIM-54 đã xuất trận ở Libya năm 1986.
Đây được coi là một trong các tên lửa không đối không chính xác, song cũng là loại đắt tiền nhất của Mỹ thời đó, nó có giá bán tới hơn 1 triệu USD/chiếc.
Tên lửa dài 3,96m, đường kính thân 0,38m, sải cánh 0,914m, trọng lượng phóng 447kg. Tên lửa lắp động cơ đẩy thuốc phóng rắn có tầm bắn lên đến 210km.
Loại tên lửa này được điều khiển bằng radar tự dẫn bán chủ động AWG-9 và radar tự dẫn chủ động giai đoạn cuối (khoảng 16km cuối). Đầu đạn là 2 ngòi nổ cận đích Mk334 và hồng ngoại Bendix được nối với nhau bởi thanh nối lớn.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chủ yếu được trang bị cho máy bay tiêm kích hạng nặng F-14 của Hải quân Mỹ.
Tên lửa chống tăng AGM-114A Hellfire
Tên lửa chống tăng AGM-114 Hellfire là loại vũ khí diệt mục tiêu tăng - thiết giáp nổi danh của Mỹ trong nhiều cuộc chiến tranh trở lại đây. Được đưa vào sản xuất từ năm 1974, hàng nghìn quả Hellfrie đã được Lockheed Martin chế tạo cho Quân đội Mỹ và các nước đồng minh Mỹ.
Loại tên lửa này được trang bị cảm biến kết hợp hồng ngoại/vô tuyến và ảnh hồng ngoại hoặc laser bán chủ động cho phép tấn công mục tiêu một cách linh hoạt.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chủ yếu được trang bị cho Lục quân Mỹ.
Hellfire có trọng lượng 45-49kg tùy biến thể, dài 163cm, đường kính thân 17,8cm, lắp đầu nổ kiểu tandem nặng 9kg hoặc nguyên khối nổ phá mảnh 8kg, tầm bắn 500m tới 8km, tốc độ bay 1.591km/h.
Tên lửa chống radar AGM-88A HARM
AGM-88 HARM là loại tên lửa không đối đất chiến thuật được thiết kế để dẫn đến mục tiêu dựa vào phát xạ điện tử kết hợp với hệ dẫn rada của tên lửa không đối đất. Tên lửa này ban đầu được phát triển bởi Texas Instruments (TI) nhằm thay thế cho các thế hệ tên lửa AGM-45 Shrike và AGM-78 Standard.
Nó có thể phát hiện, tấn công và phá hủy một ăng ten rada hoặc một trạm phát. Hệ thống dẫn, hướng đến trạm phát rada của đối phương, có một ăng ten cố định và một bộ tìm kiếm nằm ở phía đầu của tên lửa.
F-16 phóng AGM-88.
Tên lửa dài 4,1m, nặng 360kg, trang bị động cơ đẩy thuốc phóng rắn cho tầm bắn tới 90km, tốc độ 340m/s, dùng đầu tự dẫn radar bán chủ động. Đây là loại vũ khí đặc biệt nguy hiểm với các đài radar cảnh giới, dẫn đường tên lửa của Iraq.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này được sử dụng cho nhiều loại máy bay của Mỹ và các nước liên quân, đặc biệt cho máy bay tấn công điện tử F-4G. Chính loại tên lửa này đã góp phần đáng kể vô hiệu hóa mạng radar phòng không Iraq.
Tên lửa hành trình AGM-86A/B1 ALCM
Tên lửa hành trình phóng từ trên không AGM-86 ALCM được Boeing phát triển cho Không quân Mỹ, trang bị từ năm 1982. Nó được thiết kế nhằm tăng hiệu quả, tính sống sót cho máy bay ném bom chiến lược B-52H. Với AGM-86, B-52H có thể đứng ngoài tầm phòng không của đối phương để bắn tên lửa.
Tên lửa hành trình AGM-86.
Hầu hết các biến thể tên lửa hành trình AGM-86 đều được trang bị động cơ tuốc bin phản lực Williams F107 cho tầm bắn 2.400km (biến thể B) hoặc 1.100km (biến thể C), tốc độ bay cận âm 890km/h.
Các tên lửa hành trình có trọng lượng 1,4 tấn, dài 6,3m, lắp đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chỉ được phóng đi từ máy bay B-52G/H, nhưng chỉ sử dụng loại tên lửa mang đầu đạn thông thường.
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Rơi nước mắt 96 gia đình đoàn tụ sau 60 năm ly tán Mới đây, gần 400 người của 96 gia đình Hàn Quốc đã được đoàn tụ với người thân trong gia đình mình sau nhiều năm ly tán do cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Ngày 20/10 vừa qua, gần 400 người Hàn Quốc trong 96 gia đình đã đến khu du lịch núi Kumgang để được gặp lại gia đình mình sau khi bị...