Uống thuốc thì chớ uống rượu
Khi uống thuốc Tây, tốt nhất không dùng rượu, vì rượu có thể chuyển hóa thành chất độc hại khi có thuốc.
Trong Đông y, rượu được dùng làm chất dẫn cho một số loại thuốc khi sử dụng, nhất là các loại như cao trăn, cao khỉ, cao ngựa, cao mèo… nhưng lượng rượu dùng trong các trường hợp này cũng không phải là nhiều.
Còn với các loại thuốc Tây y, nói chung khi dùng thuốc không nên uống rượu, vì rượu (và các thức uống có cồn) sẽ tương tác với thuốc làm tăng hoặc giảm hiệu lực, có khi thuốc chuyển hóa thành chất độc hại
Đặc biệt chú ý một số loại thuốc sau:
Thuốc chống động kinh, thuốc chống đông máu: Rượu sẽ làm giảm từ 1/3-1/2 hàm lượng thuốc hấp thụ vào huyết tương nếu sẽ làm giảm hiệu lực của thuốc.
Paracetamol và các thuốc chống lao: Khi sử dụng cùng với rượu làm tăng nguy cơ gây độc cho gan.
Thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc chống trầm cảm, thuốc giảm đau có opim thuốc chống loạn thần, thuốc chống động kinh, thuốc kháng histamin H1: Rượu sẽ cộng hợp tác dụng trên thần kinh trung ương, làm tăng tác dụng ức chế thần kinh trung ương của các thuốc này.
Video đang HOT
Uống rượu khi dùng thuốc làm giảm hiệu lực của thuốc và có thể gây ức chế thần kinh (ảnh minh họa)
Thuốc hạ huyết áp (như thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn alpha, thuốc chẹn beeta…): Sử dụng thuốc đồng thời uống rượu sẽ gây hạ huyết áp tư thế đứng, gây choáng váng và ngất xỉu. Ngoài ra, người bị tăng huyết áp nếu uống rượu nhiều và đều đặn sẽ tăng nguy cơ đột quỵ.
Aspirin và salicylat: Tác dụng phối hợp giữa rượu và cá loại thuốc này làm tăng tác dụng phụ của thuốc trên niêm mạc ống tiêu hóa, đặc biệt làm tăng nguy cơ chảy máu tiêu hóa.
Thuốc chống đái tháo đường: Rượu tăng tác dụng hạ đường huyết, có thể dẫn tới hôn mê do hạ đường huyết, nhưng với tolbuta-mia rượu lại làm giảm tác dụng của thuốc. Với metformin, rượu còn có nguy cơ làm tăng acid lactic, đặc biệt khi đói hoặc thiếu dinh dưỡng.
Disulfiram và các chất giống disulfiram:Chất này ức chế sự oxy hóa rượu để hình thành acetaldehy. Khi dùng chất này nếu uống rượu thì sau 5-10 phút sẽ thấy mặt đỏ bừng, nhức đầu, hạ huyết áp, đánh trống ngực, buồn nôn, rất khó chịu, gây cảm giác sợ rượu (hội chứng cai rượu).
Metronidazol: Cũng tác dụng như disul-firam, do đó, bệnh nhân dùng metronidazol không được uống rượu kể cả 48h sau khi ngưng thuốc.
(Theo Sức khỏe & Đời sống)
Đừng tự chữa đái tháo đường theo "kinh nghiệm" người khác!
"Tôi bị đái tháo đường (ĐTĐ) đã 13 năm, đã từng uống Diệp Hạ Châu, rồi cây Hoàn Ngọc... nhưng kết quả chỉ một tháng đầu?". "Nghe nói trà Giảo cổ lam hạ đường huyết (ĐH), nên tôi ngưng hết thuốc tây, từ tết đến nay chỉ uống trà loại này?".
Đó là những câu hỏi của người bệnh gửi cho thầy thuốc. Thậm chí, có người mua nước ép trái nhàu 600.000 đồng/chai, rồi cần tây, rau om mỗi ngày/bó, uống thử.... Điều này cho thấy hiện có rất nhiều người tự chữa theo kinh nghiệm người khác được truyền miệng và quảng cáo loạn xạ.
Trả lời các câu hỏi của người bệnh về việc sử dụng cây diệp hạ châu, cây hoàn ngọc, trái nhàu ngâm rượu uống... để chữa ĐTĐ, DS. Lê Kim Phụng khuyên bà con không nên tin vào lời truyền miệng hoặc quảng cáo. Tùy loại, có thể có những độc tính trường diễn về lâu dài, âm thầm mà mình không biết, mỗi ngày ngấm một ít, nhiều năm làm cơ thể ngộ độc. Dân gian sử dụng rễ nhàu là chính, nhưng để làm hạ áp chứ không phải để chữa ĐTĐ; rau cần tây - theo tài liệu nói làm hạ huyết áp, chứ chưa thấy hạ ĐH để điều trị ĐTĐ; rau om cũng làm lợi tiểu, chữa sỏi thận chứ không phải dùng hạ ĐH. Hiện rất nhiều người tin rằng lá dứa sắc nước uống chữa được ĐTĐ. Nhưng trên thực tế, lá dứa chỉ có tác dụng chống oxy hóa tế bào, kháng khuẩn chống dị ứng và chống viêm mạnh. Các chất chiết từ rễ cây lá dứa thì có tác dụng chữa bệnh đi tiểu nhiều, chứ không có tác dụng hạ ĐH .
DS. Lê Kim Phụng cho biết:
ĐTĐ là bệnh mạn tính có yếu tố di truyền. Người mắc ĐTĐ có các triệu chứng như: uống nhiều, tiểu nhiều (cả về lượng nước tiểu lẫn số lần đi tiểu); ăn nhiều, sụt cân, mệt mỏi; nhức đầu, chóng mặt, mất ngủ; rụng tóc (thường gặp ở phụ nữ); rối loạn kinh nguyệt, viêm âm đạo; mờ mắt; nhiễm trùng da, nhiễm trùng âm đạo tái đi tái lại; tăng nguy cơ nhiễm khuẩn âm đạo và biến chứng trong thời gian mang thai. Người bệnh ĐTĐ dễ mắc các bệnh tim mạch như: cao huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực; dễ bị loét chân, hoại thư chân; biến chứng ở não, mắt, thận, làm cho các cơ quan này bị tổn thương. Đặc biệt, do suy giảm sức đề kháng nên người bệnh ĐTĐ dễ bị nhiễm trùng, nhiễm lao hay nhiễm nấm phổi.
Ngoài việc phải dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ và tập thể dục đều đặn, người bệnh nên dùng các thực phẩm có tác dụng hỗ trợ phòng chống ĐTĐ, như:
Cải xà lách xoong (loại cọng dài) làm hạ ĐH, cung cấp nhiều chất khoáng cho cơ thể chống thiếu máu, chữa hoại huyết, giải độc cơ thể... Nhờ chất dầu có tính kháng khuẩn nên cải xà lách xoong còn có tác dụng chống cảm cúm mùa hè. Có thể ăn sống mỗi lần khoảng 100g, vò hoặc giã nát lọc lấy nước uống 2 - 3 lần trong ngày.
Đậu cô ve (đậu Hà Lan) có tác dụng lợi tiểu và làm giảm lượng đường trong máu nên dùng t r ị phù thũng và ĐTĐ. Nên mua loại quả nhiều thịt, hột nhỏ, khi quả già chín thì xuất hiện một loại albumin độc nhưng đun sôi thì chất này bị phá hủy, vì vậy phải nấu lâu hơn để giảm độc. Có thể luộc, xào, hoặc dùng dạng nước sắc: lấy khoảng 100g vỏ quả đậu khô ngâm trong 2 lít nước cho mềm rồi đun sôi nhanh, lấy nước uống trong ngày.
Hành tây: rất giàu khoáng tố vi lượng như: Ca, Na, Fe, K, P, S, I, Si ..., tinh dầu disulfur allyl, protid, glucid, chất xơ, nhiều vitamin B1, B2, PP và C. Hành tây có nhiều công dụng trong y học, được dùng làm thuốc chữa ho, chống nhiễm khuẩn, chống huyết khối, chống xơ cứng động mạch, chống mệt mỏi, chữa suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh và có tác dụng làm hạ ĐH. Mỗi ngày sử dụng một củ nhỏ 100 - 200g dạng tươi hoặc 10ml rượu thuốc 20% (200g củ hành ngâm trong 1 lít rượu).
Khổ qua (mướp đắng): khi còn xanh khổ qua có tác dụng hạ nhiệt, tiêu đờm, làm nhuận tràng, sáng mắt, hạ ĐH. Tại khoa Y học cổ truyền Đại học Y Dược TP.HCM, bài thuốc khổ qua kết hợp với lá đa dạng trà dùng điều trị ĐTĐ trên lâm sàng cho kết quả rất tốt. Quả, thân, lá đều dùng được, mỗi ngày 1 - 2 quả hoặc 20g dây lá phơi khô sắc lấy nước uống.
Khoai lang: ngoài củ dùng làm thuốc nhuận trường, chữa táo bón và bệnh trĩ. Trong dây và lá khoai lang có chứa nhiều chất bổ dưỡng như: adenin, betain, cholin, khoáng tố, trong ngọn lá còn có thêm một chất có tác dụng như insulin, nhờ vậy mà đọt khoai lang được dùng điều trị ĐTĐ, sắc uống mỗi ngày từ 15 - 20g đọt khoai lang phơi khô rất tốt.
Tỏi: ngoài tác dụng tốt như kháng sinh, chữa cảm cúm, chữa giun, chống xơ vữa động mạch, hạ huyết áp, phòng chống ung thư... nghiên cứu gần đây còn cho thấy tỏi có tác dụng điều hòa hàm lượng đường trong máu, nhờ đó giúp ổn định ĐH. Có thể nhai sống 4 - 5 tép tỏi mỗi ngày hoặc sử dụng dạng rượu tỏi, nếu dùng dạng cồn tỏi thì mỗi ngày dùng 20 - 40 giọt.
Tỏi tốt cho người đái tháo đường
Quế: kết quả nghiên cứu tại Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) chứng minh quế giúp kiểm soát lượng ĐH rất hữu hiệu trên các bệnh nhân ĐTĐ týp 2, mỗi ngày sử dụng 1g bột quế (khoảng 1/4 muỗng cà phê) trong 6 tuần không những giúp giảm lượng ĐH mà còn giảm được các chất cholesterol xấu và triglyceride trong cơ thể. Tuy nhiên, quế có tính đại nhiệt (quá nóng) nên cần thận trọng khi sử dụng ở người già yếu, phụ nữ có thai. Khi thấy nóng thì có thể ngưng uống.
Sinh địa: chữa suy nhược, thiếu máu, thổ huyết, băng huyết, kinh nguyệt không đều. Sinh địa còn có tác dụng ức chế ĐH nên dùng để điều trị ĐTĐ, mỗi ngày 10 - 15g dạng thuốc sắc, hoặc phối hợp với khổ qua, lá Neems. Các nhà sản xuất dược phẩm ở Ấn Độ đã chiết xuất hoạt chất và bào chế ở dạng thuốc bột, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần uống một muỗng cà phê hòa trong 100ml nước ấm.
Theo SK&ĐS
Không nên tắm xà phòng nếu đang mệt mỏi Những lúc cơ thể mệt mỏi, thay vì tắm bằng xà phòng, hãy dùng nước cốt chanh. Nếu bạn bị mệt mỏi mãn tính, không nên rửa hoặc tắm bằng xà phòng. Nguyên nhân là do xà phòng có chứa nhiều kiềm mạnh, khi thâm nhập vào da chúng sẽ làm tăng cảm giác mệt mỏi. Còn nếu quen tắm bằng xà phòng...