Ung thư cổ tử cung: Phần lớn do t.ình d.ục
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) đang trở thành nỗi khiếp sợ với phụ nữ khi tần suất mắc trong độ t.uổi sinh đẻ lên đến 17%.
Tuy nhiên, các chuyên gia trấn an rằng, có một sự hiểu nhầm nhất định về căn bệnh này bởi không phải ai nhiễm virus HPV là sẽ mắc bệnh.
80% phụ nữ có nguy cơ nhiễm
PGS.TS Nguyễn Trần Hiển, Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho biết, theo thống kê ở nước ta hiện nay, mỗi năm có khoảng 5.170 ca mắc UTCTC mới, gần 2.500 ca UTCTC t.ử v.ong, tần suất mắc trong dân số là 11,4/ 100.000 dân. Đây được coi là nguyên nhân t.ử v.ong hàng đầu ở phụ nữ trong độ t.uổi sinh đẻ với bình quân 10 ca t.ử v.ong mỗi ngày do căn bệnh này. Nguyên nhân dẫn đến UTCTC là do virus HPV gây ra, trong khi tỷ lệ nhiễm virus HPV ở phụ nữ nước ta rất cao. Cụ thể, phụ nữ từ 40-49 t.uổi, tỷ lệ nhiễm HPV lên đến 43%, phụ nữ nhóm 30-39 t.uổi có tỷ lệ nhiễm là 24%, nhóm 18-29 t.uổi cũng có tỷ lệ nhiễm là 11%. Điều khó khăn nhất là virus này khi xâm nhập vào tế bào cơ thể rất khó phát hiện, cơ thể cũng không tự sinh ra được kháng thể đáp ứng chuyên biệt để chống chọi nên khó cứu chữa.
Ông Hiển nhấn mạnh, hiện đang có một số cách hiểu chưa đúng về HPV, khiến dư luận, nhất là giới phụ nữ hoang mang. Rất nhiều người nghĩ rằng cứ nhiễm HPV sẽ mắc UTCTC hay đã được tầm soát, xét nghiệp PAP ở bệnh viện cho thấy nhiễm HPV là đã mắc bệnh. Thực tế, độ chính xác của biện pháp tầm soát bằng xét nghiệm nhanh PAP không cao, chỉ khoảng 50-60% cho nên người đã được xét nghiệm dương tính với virus này cũng chưa thể khẳng định ngay được.
T.ình d.ục càng nhiều càng dễ mắc
Một nghiên cứu thú vị là UTCTC có liên quan mật thiết với độ t.uổi, mức độ quan hệ t.ình d.ục. Thực tế khoảng 80% người trong độ t.uổi sinh sản (15-49 t.uổi) có nguy cơ nhiễm HPV ở một thời điểm nào đó. Nguyên nhân là do virus HPV lây truyền chủ yếu qua đường t.ình d.ục, thâm nhập qua các vết trầy xước, vết loét dù rất nhỏ. Ngoài ra, HPV cũng có thể lây từ mẹ sang con hoặc lây qua các vật truyền như đồ lót, găng phẫu thuật… nhưng tỷ lệ ít hơn. Ths.BS Lê Thị Kiều Dung, ĐH Y dược TP. Hồ Chí Minh cho biết, nguy cơ mắc UTCTC cao đến đâu còn phụ thuộc vào số lượng bạn tình, tần số g.iao h.ợp, vệ sinh bộ phận s.inh d.ục, số con… của người phụ nữ. Do đó, quan hệ t.ình d.ục càng sớm, càng nhiều thì nguy cơ mắc UTCTC càng cao.
Video đang HOT
TS.BS Cao Hữu Nghĩa, Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh cho biết thêm, đường lây chính của UTCTC là nhiễm qua tiếp xúc da, niêm mạc d.ương v.ật với niêm mạc cổ tử cung, â.m đ.ạo chứ không qua đường m.áu hoặc qua các dịch khác của cơ thể (t.inh d.ịch, dịch â.m đ.ạo…). Nam cũng như nữ đều có khả năng bị HPV tấn công. Riêng ở nữ giới, nguy cơ nhiễm cao nhất là ở thời điểm bắt đầu có quan hệ t.ình d.ục và nhiều trường hợp nhiễm dai dẳng ở cổ tử cung tiến triển thành các tổn thương t.iền UTCTC.
PGS.TS Nguyễn Trần Hiển cho biết, UTCTC là loại ung thư có thể phòng tránh được và biện pháp phòng chống hữu hiệu nhất là vaccine. Ở nước ta, vaccine ngừa UTCTC đã được Bộ Y tế cấp phép sử dụng từ năm 2008 với chỉ định ngăn ngừa UTCTC cho t.rẻ e.m gái và phụ nữ từ 9 đến 26 t.uổi. Vaccine này chỉ đạt hiệu quả cao nhất khi phụ nữ chưa có quan hệ t.ình d.ục. Cũng như các loại vaccine khác, việc tiêm vaccine phòng ngừa nhiễm HPV không có hiệu quả phòng bệnh 100%. Trong khi đó, các biện pháp tầm soát ung thư vẫn được duy trì nhưng hiệu quả chưa cao do các phòng xét nghiệm chưa đồng bộ. Còn biện pháp phòng bệnh thụ động nhất là… không quan hệ t.ình d.ục thì khó khả thi.
Theo Duy Tiến
An ninh Thủ đô
Cách nào điều trị ung thư cổ tử cung?
Ung thư cổ tử cung đáng sợ nhưng hoàn toàn có thể phát hiện sớm khi thực hiện tầm soát và có thể điều trị nhờ các phương pháp đã được công nhận bởi hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ. Vậy bạn biết gì về các phương pháp điều trị hiện nay?
Sinh Thiết Hạch Bạch Huyết Trọng Điểm
Trong khi phẫu thuật ung thư cổ tử cung, các hạch bạch huyết ở xương chậu có thể được loại bỏ để kiểm tra xem tế bào ung thư đã lây lan chưa. Thay vì loại bỏ rất nhiều hạch bạch huyết, một kỹ thuật được gọi là sinh thiết hạch bạch huyết trọng điểm được sử dụng chỉ nhắm vào các hạch bạch huyết có khả năng chứa tế bào ung thư.
Với kỹ thuật này một loại thuốc nhuộm màu xanh có chứa bức xạ đ.ánh dấu được tiêm vào phần cơ thể có tế bào ung thư và cho phép chảy vào các hạch bạch huyết. Sau đó, trong quá trình phẫu thuật, các hạch bạch huyết có chứa bức xạ và thuốc nhuộm màu xanh sẽ được xác định và loại bỏ. Đây là các hạch bạch huyết có thể có ung thư trong trường hợp tế bào ung thư đã lan rộng. Nếu các hạch bạch huyết này không có tế bào ung thư thì sẽ không cần phẫu thuật loại bỏ. Không loại bỏ tràn lan các hạch bạch huyết sẽ giúp giảm rủi ro khi hậu phẫu và bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh hơn.
Vắc-xin HPV
Hiện đã có vắc-xin phòng tránh một số type vi-rút HPV, những chủng có khả năng gây ra bệnh ung thư cổ tử cung. Những phụ nữ được tiêm vắc-xin này sẽ có thể miễn dịch với hai loại vi-rút HPV 16 và 18, giảm đáng kể nguy cơ bị mắc phải ung thư cổ tử cung.
Những nghiên cứu để tìm ra vắc-xin cho các loại virus HPV khác cũng đang được tiến hành. Một số vắc-xin thử nghiệm cũng đang được nghiên cứu cho phụ nữ đã nhiễm HPV với mục đích tạo kháng thể để hệ thống miễn dịch của họ có thể tự tấn công và t.iêu d.iệt vi-rút trước khi phát triển thành ung thư.
Đối với những phụ nữ đã có tế bào ung thư hoặc tế bào ung thư chuyển sang giai đoạn xâm lấn, rất nhiều nghiên cứu đã và đang được tiến hành để tìm ra loại thuốc tăng cường hệ thống miễn dịch, tạo ra khả năng tấn công các vi-rút HPV chứa nhân E6, E7.Người ta hy vọng rằng các loại thuốc này sẽ t.iêu d.iệt các tế bào ung thư hoặc ngăn chặn chúng phát triển.
Phương pháp điều trị mục tiêu
Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các nhà nghiên cứu đã hiểu kỹ hơn về sự biến đổi gen của các tế bào gây ra ung thư. Căn cứ vào đó, họ đã phát triển những loại thuốc mới với mục tiêu tấn công chuyên biệt vào sự biến đổi gen này. Phương pháp điều trị mục tiêu có cơ chế hoạt động khác với phương pháp hóa trị liệu truyền thống. Những loại thuốc điều trị mục tiêu thường có ít tác dụng phụ hơn.Những loại thuốc này có thể được sử dụng một mình hoặc với hóa trị liệu truyền thống.
Pazopanib là một loại thuốc điều trị mục tiêu ngăn chặn tác động của yếu tố tăng trưởng nhất định trên các tế bào ung thư. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng với liệu pháp điều trị mục tiêu, các bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối có thời gian sống lâu hơn.
Các thuốc điều trị mục tiêu đã được nghiên cứu trong bệnh ung thư cổ tử cung bao gồm bevacizumab (Avastin ®) và lapatinib (Tykerb ®).
Tăng Nhiệt
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc thêm tăng nhiệt bức xạ có thể ngăn ngừa ung thư quay trở lại và giúp bệnh nhân sống lâu hơn. Tăng thân nhiệt là một phương pháp điều trị làm tăng nhiệt độ trong khu vực nơi có khối u, thường bằng cách sử dụng angten tần số vô tuyến được đặt xung quanh bệnh nhân.
Thuốc điều trị trước khi ung thư
Tiêu chuẩnđiều trị cho giai đoạn trước khi phát triển thành ung thư cổ tử cung (CIN) bao gồm phương pháp áp lạnh, điều trị laser và cắt chóp. Những nghiên cứu gần đây cho thấy nếu thuốc có thể sử dụng thay thế các biện pháp trên thì cũng đem đến một số kết quả hứa hẹn.
Trong một nghiên cứu, bệnh nhân với CIN2 hoặc CIN3 được cho sử dụng một loại thuốc gọi là diindolylmethane (DIM) trong 12 tuần. Kết quả tái khám cho thấy với một số bệnh nhân, tế bào CIN đã tiêu biến hoàn toàn.
Trong một nghiên cứu khác, CIN được điều trị bằng cách áp dụng một loại thuốc gọi là cidofovir cho cổ tử cung. Trong hơn một nửa số phụ nữ được điều trị, tế bào CIN được t.iêu d.iệt hoàn toàn.Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa được thực hiện trước khi phác đồ áp dụng thuốc này có thể được công nhận và sử dụng rộng rãi như một phương pháp điều trị tiêu chuẩn.
Những trường hợp ung thư cổ tử cung được phát hiện sớm, khả năng chữa khỏi hoàn toàn làrất cao. Tuy nhiên, tiên lượng cho hiệu quả của điều trị ung thư giai đoạn cuối hay ung thư tái phát thì ít lạc quan hơn. Hiện nay đang có rất nhiều thử nghiệm lâm sàng với mục đích cải thiện hiệu quả điều trị cho ung thư giai đoạn cuối và ung thư bị tái phát với các loại thuốc hóa trị mới, những cách thức mới cho xạ trị và sự kết hợp mới của phẫu thuật với xạ trị hoặc hóa trị liệu để cải thiện kết quả điều trị cho phụ nữ bị ung thư cổ tử cung.
Những phương pháp kể trên hiện đang được áp dụng tại khoa Ung thư của bệnh viện Raffles, Singapore.
BS Lynette Ngo Su Mien
Chuyên gia ung thư
Bác sĩ Ngo tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Gia Singapore năm 1996, làm việc tại Trung tâm Ung Thư Quốc Gia Singapore (NCCS) từ năm 2005. Bà tiếp tục theo đuổi và lấy bằng Thạc sĩ bằng Y khoa chuyên về nội khoa tại trường Cao đẳng Hoàng gia, Vương quốc Anh vào năm 2006 và là một giảng viên tại trường Y Yong Loo Lin. Bác sĩ Ngo đã nhận được G.iải t.hưởng Nhân lực Y tế chương trình một năm Gillette tại Trung tâm Ung thư phụ khoa tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts (MGH), Mỹ. Vào chiều ngày 03/03/2012, Orientalstar - VPTT Bệnh viện Raffles Singapore tổ chức chương trình "Hội thảo và tư vấn chuyên đề về Ung thư phụ khoa" tại Khách sạn Nikko Hà Nội. Bệnh nhân có nhu cầu tham dự hội thảo và tư vấn, trao đổi với Bác sĩ Lynette Ngo về các bệnh lý liên quan đến buồng trứng, tử cung và tuyến vú...vui lòng đăng ký trước ngày 02/03/2012 theo địa chỉ dưới đây: Văn phòng thông tin y tế bệnh viện Raffles - Singapore tại Hà Nội 27 Tô Ngọc Vân, Quận Tây Hồ, Hà Nội Tel: 04. 3715 3826 Hotline: 098 480 6869 Email: healthcare@orientalstar.vn Website: www.orientalstar.vn
Theo Dân trí
Phương pháp mới kiểm soát ung thư cổ tử cung Tính trên toàn thế giới, mỗi năm có khoảng nửa triệu phụ nữ bị ung thư cổ tử cung (CTC) nhưng ở các nước phát triển, ung thư CTC ngày càng giảm trong 20 năm gần đây nhờ thực hành các phương pháp dự phòng (làm phết tế bào, soi cổ tử cung và tiêm vắc-xin phòng virus u sòi cho phụ nữ...