Úc phát hiện ra hóa thạch khủng long biến thành đá quý
Trong số nhiều khoáng sản được tìm thấy tại Úc, có một loại đá quý gọi là đá opal (một loại đá mắt mèo), được coi là báu vật vô giá trong thời Trung Cổ và được người Hy Lạp tôn sùng. Nhưng các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện ra hóa thạch khủng long bằng một cách nào đó đã biến thành opal tại Úc.
Opal được cho rằng là cụm từ bắt nguồn từ tiếng La Mã – Opalus (có nghĩa là sắc màu). Viên đá này được coi là báu vật vô giá trong thời Trung Cổ và được người Hy Lạp tôn sùng. Họ tin rằng Opal là đá mắt mèo sẽ giúp cho người đeo tăng thị lực. Một vài người khác thì cho rằng đá mắt mèo sẽ giữ cho màu tóc vàng của các cô gái không bị bạc đi.
Nước Úc là nơi chứa nhiều đá Opal nhất trên thế giới và nổi tiếng về chất lượng. Lingtning Ridge là địa phương có đá Opal đen đẹp nhất. Đá Opal lửa có nguồn gốc từ núi lửa, sở hữu sự trong suốt như pha lê cùng màu sắc nổi bật như vàng hay đỏ tươi, được khai thác chủ yếu ở Mexico, hiếm khi khai thác được loại đá này với màu sặc sỡ. Opal lửa cũng được tìm thấy ở Oregon tại Mỹ.
Opal là một chất rắn hydrat hóa vô định hình có thành phần chính là silic. Loại đá này có thể khúc xạ rất nhiều màu sắc rực rỡ khác nhau dưới ánh sáng, và tạo ra các hiệu ứng thay đổi màu sắc khác nhau nên từ lâu loại đá mắt mèo này đã được xem như một loại ngọc quý. Trong số nhiều quốc gia khai thác và sản xuất đá opal, Úc được xem là nơi có nhiều trữ lượng đá opal có giá trị cao nhất, đá opal đen được sản xuất tại Lightning Ridge, New South Wales ở miền nam Australia, và đây cũng được xem là loại đá opal có giá trị cao nhất.
Vị trí của Lightning Ridge.
Black Opal là một sản phẩm đặc biệt của Lightning Ridge.
Mặc dù nó được gọi là Lightning Ridge, nhưng thực sự đây là tên của một thị trấn khá nhỏ, nhưng vì nó sở hữu một trữ lượng đá quý rất lớn nên nhiều người đã tìm đến Lightning Ridge để tìm đá opal, và họ được gọi là những thợ săn đá quý.
Robert Foster và vợ.
Robert Foster là một thợ săn đá quý và đã đặt chân tới Lightning Ridge từ rất sớm. Năm 1986, Foster đã phát hiện ra một hóa thạch cổ sinh vật bị opal hóa trong một mỏ đá opal có tên là Wee Warra. Foster ban đầu nghĩ rằng mẫu hóa thạch đó chỉ là một cái móng ngựa, nhưng sau đó ông lại phát hiện thêm được nhiều mẫu hóa thạch tương tự như vậy.
Bởi vì thế, Foster đã tìm đến các nhà cổ sinh vật học địa phương và nói về phát hiện của mình. Sau khi thấy phát hiện này, các nhà cổ sinh vật học tin rằng đây là những mẫu hóa thạch của một loài hoàn toàn mới. Họ đã liên lạc với quân đội của Úc ở gần đó về cử người đến hỗ trợ các nhà cổ sinh vật học tiến hành những cuộc khai quật trên quy mô lớn và sau đó đã có hơn 100 mẫu hóa thạch như vậy được phát hiện.
Một số lượng lớn hóa thạch khủng long đã được phát hiện tại mỏ đá quý Wee Warra.
Hóa thạch được phát hiện bởi Foster và các nhà cổ sinh vật học sau đó đã được lưu trữ trong các bảo tàng và gần như bị con người lãng quên trong 15 năm.
Sau khoảng thời gian này, Foster biết được rằng có một vài mẫu hóa thạch đang được trưng bày trong một cửa hàng opal ở Sydney, và chúng có thể sẽ được bán, vì vậy ông ấy đã mua chúng về nhà và tặng lại cho Bảo tàng Opal Úc để nghiên cứu về chúng.
Vào năm 2019, các nhà cổ sinh vật học đã xuất bản một nghiên cứu trên Tạp chí Cổ sinh vật học Journal of Vertebrate Paleontology với tựa đề “Fostoria dhimbangunmal – loài khủng long mới đến từ Lightning Ridge, New South Wales, Úc”.
Ngiên cứu mô tả và đặt tên cho các hóa thạch được phát hiện bởi Foster là Fostoria để kỷ niệm sự đóng góp của ông trong việc khám phá và bảo vệ hóa thạch và tên đầy đủ của loài khủng long mới này là Fostoria dhimbangunmal.
Thông qua các phân tích hóa thạch cho thấy loài khủng long mới này có chiều dài cơ thể khoảng 5 mét và nặng khoảng 200kg, chúng thuộc về nhóm khủng long Iguanodontia và là một loài khủng long ăn cỏ điển hình.
Fostoria có một cái đầu khá dài và sở hữu một cái mỏ sừng cứng ở phía trước. Chúng cũng sở hữu hai hàng răng trong miếng. Loài khủng long này sở hữu đôi mắt ở hai bên đầu, đi cùng với đó là thị lực cực kỳ nhanh nhạy, giúp cho chúng phát hiện ra sự nguy hiểm ngay từ xa.
Cổ của chúng không dài nhưng lại được uốn cong theo hình chữ S. Từ tổng thể ngoại hình có thể thấy chúng có một thân hình lớn và cái đuôi khá dài, xét về tương quan thì đây là một loài khủng long có thể chạy nhanh vì chân sau của chúng khá dài và khỏe.
Nói một cách chính xác thì hai chân sau của loài khủng long này dài hơn hai chân trước, với năm ngón chân trên bàn chân trước và bốn ngón chân trên hai chân sau, ba trong số đó tiếp xúc với mặt đất.
Trên thực tế, Fostoria có thể đi bằng cả bốn chân và đứng lên bằng hai chân sau. Khi gặp nguy hiểm, chúng sẽ dựa vào hai chân để chạy nhanh, và ở những hoàn cảnh thông thường thì chúng sẽ đi chậm trên bốn chân.
Hóa thạch xương ngón chân.
Iguanodontia là một nhóm khủng long ăn cỏ sống từ kỷ Jura giữa đến kỷ Phấn trắng muộn.
Hóa thạch của loài khủng long này được tìm thấy ở New South Wales, tây nam Australia tại hệ tầng Griman Creek Formation, có niên đại từ giai đoạn Albian Stage đến giai đoạn địa chất Cenomanian, khoảng 100 triệu năm trước ở kỷ Phấn trắng.
Trong một thời gian dài, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện ra một số lượng lớn hóa thạch cổ sinh vật trong các mỏ opal của Lightning Ridge, điều đó cho thấy rằng 100 triệu năm trước đây là một vùng bình nguyên rộng lớn.
Các hồ lớn và hà lưu tụ lại với nhau và tạo thành biển nội địa Eromanga sea và tạo môi trường cho rừng phát triển khiến cho nơi đây trở thành môi trường sống lý tưởng của khủng long. Ngoài Fostoria, nơi đây còn phát hiện rất nhiều loài khủng long khác như Fulgurotherium, Muttaburrasaurus, Walgettosuchus và Weewarrasaurus.
Fulgurotherium.
Muttaburrasaurus.
Walgettosuchus.
Trên thực tế các mẫu hóa thạch của loài khủng long Fostoria ở Úc không phải đến từ một các thể duy nhất. Sau khi phân tích các nhà cổ sinh vật học thấy rằng có 4 xương bả vai kích thước khác nhau. Có khoảng 60 chiếc xương opal hóa từ một con khủng long trưởng thành, bao gồm một phần hộp sọ. Các bộ phận thuộc 4 bộ xương Fostoria được tìm thấy, bao gồm những con non và con trưởng thành. Điều này khiến các nhà nghiên cứu tin rằng đây là một gia đình khủng long hoặc ít nhất là một đàn nhỏ.
Nhà cổ sinh vật học Phil Bell ở New England, Armidale, nhận thấy hóa thạch thuộc về một loài khủng long chưa được biết tới trước đây. Nhưng khi Bell và đồng nghiệp xem xét kỹ hơn, họ xác định những chiếc xương thuộc về nhiều loài khủng long.
“Lúc đầu, chúng tôi cho rằng đó là một bộ xương, nhưng khi quan sát vài chiếc xương, tôi nhận ra chúng tôi có 4 xương bả vai kích thước khác nhau. Có khoảng 60 chiếc xương opal hóa từ một con khủng long trưởng thành, bao gồm một phần hộp sọ”, Bell nói.
Tiến sĩ Bell và nhóm của ông hiện đang làm việc chăm chỉ để phác họa các hóa thạch bị opal hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, đây là một việc khá khó khăn bởi vì chúng thường bị vỡ nát trong quá trình khai thác đá opal.
Phát hiện loài khủng long sống dưới lòng đất 100 triệu năm trước
Khi nhắc tới việc đào hang, chắc hẳn nhiều người sẽ nghĩ đến những loài gặm nhấm như chuột, nhưng trên thực tế, vào thời Đại Trung Sinh lại tồn tại một loài khủng long biết đào hang và sinh sống dưới lòng đất.
Khoảng 10 năm trước, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện ra một số tàn tích hang động uốn khúc dài vài mét và rộng khoảng 70 cm dưới lòng đất trong hệ tầng Blackleaf ở phía đông nam Montana. Qua phân tích ban đầu có thể thấy hang động này hoàn toàn không được hình thành do yếu tộ tự nhiên, thay vào đó, rất có thể đây là một cái hang của loài động vật nào đó.
ác nhà nghiên cứu cho biết việc đào hng có thể đã giúp loài khủng long nhỏ bé này sống sót trong điều kiện thời tiết nóng nực. Khác với thú, bò sát không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Vì thế, trong s mạc, một cái hang sẽ là nơi trú ẩn tốt nhất để tránh nắng nóng, trong khi ở vùng cực và núi co lạnh lẽo, hang sẽ giúp duy trì hơi ấm.
Khi cuộc khai quật được tiếp tục, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra một số hóa thạch của một loài khủng long nằm sâu trong hang. Làm thế nào những con khủng long này có thể ở trong hang? Có phải nó bị kéo vào sau khi bị giết bởi những con vật khác? Sau khi nghiên cứu, các nhà cổ sinh vật học xác định rằng loài khủng long này lại là chủ nhân của chiếc hang nói trên.
Đất trong hng được định tuổi vào giữa kỷ Cret - thời kỳ ấm áp trải dài từ khoảng 135 đến 115 triệu năm trước. "Đây là dấu vết và ằng chứng hóa thạch đầu tiên của hành vi đào hng ở một loài khủng long", nhóm nghiên cứu Mỹ và hật Bản cho biết. ái hang, dài và chứa đầy trầm tích, ao gồm một đường hầm dốc ngoằn ngoèo dài hơn 2 mét và rộng khoảng 70 cm, tương tự như những cái hố mà linh cẩu vằn vẫn tạo r ngày nay.
Các nhà cổ sinh vật học đặt tên cho loài khủng long mới phát hiện này là Oryctodromeus cubicularis - một cái tên kết hợ tiếng Latin và Hy Lạp có nghĩa là kẻ đào hang.
Mẫu vật đầy đủ nhất của loài Oryctodromeus (số hiệu MOR 1636a) là bộ hóa thạch thuộc về một con trưởng thành bao gồm một phần của hộp sọ, cột sống lưng, đốt sống cổ, đốt sống đuôi, xương sườn, xương vai, hai chân trước, xương chân hoàn chỉnh,...
Ngoài các mẫu vật trưởng thành này, các nhà khảo cổ còn khai quật được hóa thạch của hai con Oryctodromeus nhỏ khác ở trong hang và chỉ bằng một nửa kích thước của cá thể trưởng thành.
Ở cuối hng là bộ xương của một con trưởng thành và hi con khủng long non. Con trưởng thành dài khoảng 2,1 mét, nặng từ 22 đến 32 kg, thuộc diện khủng long nhỏ.
Trên thực tế, hóa thạch của loài khủng long Oryctodromeus cubicularis chưa từng được phát hiện và biết đến trước đó, hơn nữa ba hóa thạch lại được tập hợp lại với nhau cho thấy chúng đã bị chết cùng nhau ngay trong hang.
Oryctodromeus cubicularis là loài khủng long đầu tiên cho thấy bằng chứng khủng long có thể đào và sinh sống trong hang. Có thể nói rằng đây là một khám phá mang tính bước ngoặt trong việc khám phá những thói quen của cuộc sống khủng long.
Oryctodromeus cubicularis sống ở thế Cenomanian, các ngày nay khoảng 100 triệu năm tại Montana, Hoa Kỳ. Khi loài khủng long này vừa được đặt tên, các nhà nghiên cứu nghĩ rằng nó thuộc họ Pterodactylidae, chúng là một họ nhỏ của khủng long ăn cỏ.
Trong những năm gần đây, sau khi tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu chuyên sâu, các nhà cổ sinh vật học khẳng định rằng Oryctodromeus cubicularis là một loài khủng long ăn thịt và thay đổi vị trí phân loại của chúng thành Dibenosaur. Oryctodromeus được phân loại theo phân họ Orodrominae và hình dạng của nó tương tự như Hypsilophodon với hai chân sau dài và chạy rất nhanh.
Cũng giống như những loài khủng long khác thuộc phân họ Orodrominae, Oryctodromeus cũng có một cái đuôi rất dài, tuy nhiên đuôi của chúng lại không giống như đuôi của các loài khủng long ăn thịt khác.
Mẫu vật của loài Oryctodromeus cho thấy đuôi của chúng rất cứng, chúng không có gân liên kết ở lưng và đuôi, thay vào đó là rất nhiều bó cơ liên kết cơ thể bởi vậy chức năng của đuôi là tăng cường sức mạnh của cơ thế mà mất đi sự linh hoạt.
Ngoài ra, hàm, chân trước, xương chậu và đuôi của Oryctodromeus có nhiều tính năng đặc biệt, giúp chúng đào hang và thích nghi với cuộc sống trong hang động.
Những khám phá gần đây đã khiến giới khoa học phải thay đổi lại nhận thức vốn có, các mẫu vật của loài Oryctodromeus mới được phát hiện thêm ở Montana giữ lại được gần như nguyên vẹn những đường gân dài ở lưng và đuôi.
Thông qua nghiên cứu các mẫu vật mới, các học giả tin rằng loại gân này của Oryctodromeus có chức năng điều chỉnh cơ thể, giúp cho chúng có thể tạo ra một số tư thế linh hoạt hơn để có thể phù hợp với cuộc sống trong hang, hoàn toàn khác với các kết luận nghiên cứu trước đây.
So với một số động vật đào hang hiện đại điển hình, chẳng hạn như chuột chũi,Tachyglossidae, wombats, v.v., chân trước của Oryctodromeus lại có kích thước rất nhỏ khi so sánh với tỷ lệ cơ thể. Oryctodromeus là một loài khủng long đi bằng hai chân sau. Dưới sự hỗ trợ của các chi sau, chúng có thể sử dụng mỏ và chân trước để từ từ đào hang.
Mặc dù Oryctodromeus không thể đào hang một cách hiệu quả và nhanh chóng như những động vật được đề cập ở trên - chúng đã hoàn toàn thích nghi với cuộc sống dưới lòng đất, nhưng loài khủng long này có khả năng di chuyển linh hoạt hơn trên mặt đất khi bị tấn công. Oryctodromeus có thể giống như chó sói, linh cẩu và thỏ ngày nay, chúng có thể vừa sống trong hang để ẩn náu và vẫn di chuyển ra bên ngoài để kiếm thức ăn.
Hình dạng cơ thể của Oryctodromeus không lớn lắm. Con trưởng thành chỉ dài khoảng 2 mét và nặng 20-30 kg. Kích thước nhỏ có nghĩa là chúng phải đối mặt với rất nhiều kẻ săn mồi. Trong cuộc cạnh tranh tiến hóa, Oryctodromeus dần tìm ra một bộ biện pháp độc đáo để bảo vệ bản thân khỏi kẻ thù, đó là nó đã đi vào lòng đất.
Kích thước nhỏ là điều kiện quan trọng để sống dưới lòng đất. Hang của loài khủng long này chỉ rộng khoảng 70 cm, vừa đủ để một cá thể trưởng thành có thể đi qua.
Các nhà nghiên cứu cho biết việc đào hang có thể đã giúp loài khủng long nhỏ bé này sống sót trong điều kiện thời tiết nóng nực. Khác với thú, bò sát không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Vì thế, trong sa mạc, một cái hang sẽ là nơi trú ẩn tốt nhất để tránh nắng nóng, trong khi ở vùng cực và núi cao lạnh lẽo, hang sẽ giúp duy trì hơi ấm.
Argentina phát hiện hóa thạch của một loài khủng long mới Các nhà khoa học thuộc Đại học La Matanza của Argentina cho biết hóa thạch có chiều dài chưa đến 1,5 mét, được tìm thấy trong lúc khai quật tại tỉnh Rio Negro ở khu vực Patagonia. Hóa thạch thuộc Overoraptor chimentoi - một chi mới của loài khủng long ăn thịt Paraves. (Nguồn: bangkokpost.com) Ngày 4/6, các nhà cổ sinh vật học...