Tướng Nguyễn Huy Hiệu viết về Đại thắng mùa Xuân
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong 55 ngày đêm của quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 kết thúc thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Đây là điểm hội tụ những sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam; khẳng định sự đúng đắn về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng; về sức mạnh của chiến tranh nhân dân; về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và phát huy nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm trong lịch sử giữ nước oanh liệt của dân tộc, ở thời đại Hồ Chí Minh ta có chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và đến chiến cuộc mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, là những biểu hiện đặc sắc nhất tài năng sáng tạo của Đảng và nhân dân ta trong nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh để giành thắng lợi. Nghệ thuật đó thể hiện sâu sắc tính kế thừa truyền thống dân tộc, vừa đậm nét tính sáng tạo trong thời đại mới.
Trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ta đã thực hiện thành công phương châm chiến lược đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn quân địch.
Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, nhờ có nghệ thuật chỉ đạo chỉ huy tài giỏi, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, phát hiện sớm và nhạy bén nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời, sử dụng nghệ thuật mưu kế trên nền tảng chiến tranh nhân dân, phát triển tiến công táo bạo và thần tốc, đánh địch bất ngờ và liên tục, nên chiến cuộc mùa Xuân 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn trong thời gian ngắn bằng ba đòn chiến lược: Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng, Sài Gòn.
Đó là nghệ thuật sử dụng lực lượng khôn khéo để luôn đánh địch trên thế mạnh, tạo nên sức mạnh áp đảo quân địch trong chiến đấu, thực hiện những chiến dịch đánh tiêu diệt lớn bằng các đòn chiến lược, buộc địch từ chỗ bị đánh bất ngờ đến bị động lúng túng phải co cụm chiến lược rồi rút lui chiến lược mà dẫn đến sự tan rã và bị thất bại hoàn toàn, thực hiện trọn vẹn mục tiêu: “đánh cho ngụy nhào”.
Với 55 ngày đêm cuối cùng của cuộc kháng chiến kéo dài 21 năm, chúng ta đã tập trung toàn bộ sức lực, trí tuệ của cả một dân tộc, đấu mưu, đấu trí một cách quyết liệt nhất để đi đến giành thắng lợi trọn vẹn.
Mưu kế lập ra “hình trận” và “thế trận”, tạo ra “thời cơ” làm cho địch nhiều mà hóa ít.
Mở đầu chiến cuộc mùa Xuân 1975 mưu kế chiến lược của ta đã tạo ra một hình trận chiến lược rất đẹp là ghìm địch ở hai đầu Nam Bắc chiến tuyến ở Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng, bằng cách áp sát các quân đoàn chủ lực của ta (Quân đoàn 1 ở bờ Bắc sông Bến Hải, Quân đoàn 2 ở Tây Huế và Quân đoàn 4 ở Đông Bắc Sài Gòn) vào gần các khu vực trọng yếu đó, buộc địch phải tập trung cả hai sư đoàn tổng dự bị chiến lược vào Sài Gòn và Huế – Đà Nẵng, để sơ hở khoảng giữa là Tây Nguyên.
Hình trận này đã tạo ra thế trận có lợi cho mặt trận Tây Nguyên. Đây là cách nghi binh chiến lược cho đòn tấn công vào quân địch ở Tây Nguyên. Khi địch đã bị giữ chặt ở Huế và Sài Gòn thì ta mở cuộc tiến công lớn ở Tây Nguyên là nơi địch sơ hở và công phá vào Buôn Ma Thuột lại là nơi hiểm yếu của khâu yếu nhất trong hệ thống phòng ngự của địch.
Mưu kế chiến lược tiếp theo là bí mật đưa hai sư đoàn nữa lên Tây Nguyên là mưu kế hay của Bộ Thống soái mà trực tiếp là Tổng Tư lệnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do đột ngột tăng cho tây Nguyên Sư đoàn 316 và Sư đoàn 968 mà địch không hay biết, không kịp đối phó, thành ra tại thời điểm đó ở Tây Nguyên có 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập cùng các binh chủng chiến đấu hùng mạnh, được phối hợp với Sư đoàn 3 (Quân khu 5) đã tạo nên quả đấm thép làm cho lực lượng ta vượt trội hơn địch.
Ở Tây Nguyên, quân ta từ một lực lượng chiến dịch bỗng trở thành một lực lượng chiến lược. Quả đấm thép đó đã đủ sức mạnh đánh ghìm địch ở Plây-cu; cắt Đường 19 và Đường 14; phá vỡ Buôn Ma Thuột và chủ động đánh bại phản kích của Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn, làm nên đột biến về chiến tranh.
Hai sư đoàn và thời cơ tăng thêm cho Tây Nguyên là cái nút trong mưu kế chiến lược đánh bại địch trong chiến cuộc mùa Xuân năm 1975. Địa điểm và thời cơ sử dụng hai sư đoàn này là “chữ thời” về tài năng và trí tuệ trong nghệ thuật chỉ huy.
Ở Tây Nguyên thế trận của ta là nhằm phá vỡ chỗ yếu nhất của đich là ở Buôn Ma Thuột, để từ trên cao phát triển xuống đồng bằng. Mưu kế đó là: nghi binh thu hút, ghìm địch ở đầu manh, để tiến công phá vở địch ở đầu yếu. Mưu kế chiến dịch là đáng nghi binh ở phía Bắc Tây Nguyên; tập trung sức mạnh tiến công địch ở phía Nam.
Hình trận chiến dịch ở Tây Nguyên còn được thể hiện trong việc sử dụng “chính-kỳ”. Ở giai đoạn đầu, Sư đoàn 968 được sử dụng như một mũi chính binh, nhưng thực chất lại là đánh nghi binh; còn Sư đoàn 316, các Trung đoàn 24, 95B và các binh chủng là chính binh nhưung được sử dụng một cách bí mật làm kẻ địch bị mất ngờ nên có tính chất như một tập đoàn kỳ binh.
Nhưng sau đó khi thế trận đã bắt đầu chuyển hóa thì “chính”, “kỳ” cũng biến hóa một cách linh hoạt. Quá trình thưc hành tấn công địch ở Tây Nguyên, ta dùng lực lượng tương đối lớn (Sư đoàn 968) đánh nghi binh lừa địch ở phía Bắc trước hết nhằm vào Plây-cu làm cho địch tin rằng ta sẽ mở chiến dịch ở Bắc Tây Nguyên. Đó là nghệ thuật nghi binh thần kỳ.
Trong khi đó các đơn bị chủ lực bí mật di chuyển xuống Nam Tây Nguyên ( Sư đoàn 10 tiến về Đức Lập, Sư doàn 320 đứng chấn ở Tây Cẩm Ga). Sư đoàn 326 tiến vào Buôn Ma Thuột, tiếp đến Sư đoàn 3 (Quân khu 5) và Trung đoàn 95A đánh cắt Đường 19.
Sư đoàn 320 đánh cắt Đường 14, Trung đoàn 25 cắt Đường 21, tạo ra tthế trận chia cắt địch về chiến lược và chiến dịch, làm cho các cụm quân địch bị cô lập, tách rời nhau, không thể chi viện được cho nhau, tạo thế trận cho Nam Tây Nguyên tập trung đòn đánh vào Buôn Ma Thuột được thuận lợi.
Nhờ đó các mũi đánh chính kết hợp với mũi thọc sâu, vu hồi đã đánh bại một cách nhanh chóng, chiếm được thị xã Buôn Ma Thuột, hoàn thành trận đánh then chốt. Hình trận bao giờ cũng cần có lực lượng dự bị – đội dự bị để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống.
Sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, ta đã linh hoạt, chủ động sử dụng ngay Sư đoàn 10 về làm đội dự bị để sẵn sàng đánh địch phản kịch. Sư đoàn 10 sau khi đánh Đức Lập xong chuyển về Buôn Ma Thuột vừa bố trí đón lõng đánh địch ở nơi ta dự kiến chúng sẽ đổ quân, vừa tiến ông trong hành tiến nên đã đánh bại phản đôt kịch của Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn hòng ứng cứu chiếm lại Buôn Ma Thuột.
Sau khi mất Buôn Ma Thuột và Sư đoàn 23 phản kích bị đánh bại, tất cả các thủ đoạn tác chiến, các hình thức chiến thuật của địch bị đánh bại ở Tây Nguyên, gây ra một sự đột biến về chiến dịch tác động lớn đến chiến lược của chiến dịch, làm hoảng loạn về tư tưởng và thế bố trí chiến lược của địch; buộc địch phải rút lui để co cụm phòng ngự.
Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu liều ra lệnh rút chạy khỏi Tây Nguyên. Khi quân địch rút chạy liền bị quân ta truy kích và đã tiêu diệt phần lớn, phản ứng dây chuyền đó tạo ra đột biến về chiến dịch; chiến dịch đã thắng lợi lại càng thắng lợi hơn, thắng lợi một cách đột ngột, rất nhanh, tạo ra đột biến về chiến tranh.
Chiến thắng của chiến dịch Tây Nguyên là khởi điểm dẫn đến sự tan rã và suy sụp về chiến lược của địch, đồng thời đã cổ vũ, động viên rất mạnh mẽ khí thế của quân và dân ta ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, càng củng cố quyết tâm chiến đấu, lòng tin vào thắng lợi cuối cùng và tạo đà cho quân và dân ta đánh đòn thứ hai ở Huế – Đà Nẵng và mở trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn – Gia Định.
Thế trận chiến lược phát triển đã tạo ra thời cơ chiến lược.
Trong khi chiến dịch tây Nguyên đang trên đà thắng lơn, ta nhanh chóng đánh địch ở Huế và Đà Nẵng, đến khi chiến dịch Tây Nguyên vừa kết thúc thắng lợi thì đã hoàn thành bước một (giải phóng Thừa Thiên – Huế). Khi tiếng công Đà Nẵng kết thúc thắng lợi, ta đã dồn được toàn lực vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đó là thời co chiến lược.
Trên đà chiến thắng, các binh đoàn chủ lực của ta hành tiến với khí thế “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng”. Sau khi đập tan tuyến phòng ngự từ xa Phan Rang, cùng với việc giải phóng Bình Thuận, Ninh Thuận, quần đảo Trường Sa, đihcj bị tan vỡ từng mảng một cách nhanh chóng và đột ngột. CHỉ huy đich rối loạn, chiến lược của chúng chuyển sang bị động đối phó và rút lui.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ngày càng quyết liệt. Ta tập trung toàn lực cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. 17 giờ ngày 24-4-1975 thực hành tổng công kích, năm cánh quân của ta gồm 4 quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 trong thế bao vậy Sài Gòn, từ vị trí xuất phát tiến công được lệnh vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn.
Với sức mạnh của 15 sư đoàn và mũi thọc sâu của lữ đoàn xe tăng, 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975 quân ta đánh chiếm dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các chính phủ Sài Gòn, Chiến dịch Hồ Chí Minh giành toàn thắng.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, điểm hội tụ sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, khẳng định sự đúng đắn về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta; về sức mạnh của chiến tranh nhân dân; về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; về phát huy nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc để chống lại mọi cuộc chiến tranh xâm lược là “dĩ đoản chế trường”; “thế thắng lực”; “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” vận dụng thế thời một cách tài tình, sáng tạo.
Video đang HOT
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thẳng đã đưa đất nước ta vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng vẻ vang đó mãi mãi cổ vũ và vẫn sẽ là những bài học rất quý báu cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của các thế hệ chúng ta ngày nay và mai sau.
Ngày nay, chiến tranh hiện đại thường sẽ là chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao. Để bảo vệ Tổ quốc, đánh bại được cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của đich đòi hỏi chúng ta vẫn phải tiến hành chiến tranh nahnh dân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Muốn vậy ta phải có vũ khí trang bị hiện đại, có tinh thần quyết tâm cao độ.
Chiến đấu đánh địch ở trên bộ cũng quan trọng như đánh địch ở trên không. Phải đánh mạnh, đánh đau thì mới đánh bại được ý chí xâm lược của địch. Ta có kém địch về vũ khí thì phải vận dụng phương châm lấy hiện đại là chính kết hợp với thô sơ và có một phần vũ khí công nghệ cao để đánh lại hiện đại tinh xảo.
Tinh thần ý chí chiến đấu của toàn dân, toàn quân dưới sự lạnh đạo của Đảng, tài thao lược và trí tuệ tinh hoa sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam vẫn là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi.
Theo vietbao
Bí mật địa đạo Việt và những cạm bẫy kinh hoàng
Địa đạo Củ Chi chờ đợi lính Mỹ với sự chật chội đến nghẹt thở, bóng tối mù mịt, mìn, cạm bẫy, rắn độc, bò cạp và sau đó nữa là những người du kích thiện chiến..
Thành phố trong lòng đất
Sự kiên cường và sức chiến đấu mãnh liệt của quân và dân Củ Chỉ được duy trì bởi một hệ thống địa đạo - đường hầm nhiều tầng nhiều lớp kéo dài đến 200 km, được quân và dân Củ Chi kiến tạo liên tục trong rất nhiều năm liên tục, với vô số các cửa hầm bí mật lên mặt đất, các lỗ châu mai - hỏa lực bí mật, các hầm trú ẩn, các công xưởng ngầm dưới mặt đất, kho tàng và doanh trại trú quân, phía trên được bố trí dày đặc mìn và các hầm chông, cạm bẫy.
Mô tả về địa đạo Củ Chi rất đơn giản: Đây là hệ thống công sự ngầm bí mật ở dưới đất, các hệ thống công sự này được ngụy trang rất sâu và rất kỹ lưỡng trong rừng rậm nhiệt đới. Mục đích của hệ thống địa đạo Củ Chi - giáng những đòn tấn công bất ngờ vào quân địch trong giai đoạn những năm tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt nam.
Hệ thống địa đạo - công sự chiến đấu được nghiên cứu và suy tính rất kỹ lưỡng với tính toán có thể tấn công tiêu diệt đối phương từ mọi phía. Mạng lưới phức tạp của những đường hầm chạy dích dắc lan tỏa về mọi hướng từ trục địa đạo chính và lan tỏa thành vô số các nhánh, có những nhánh là các hầm bí mật trú ẩn, cũng có những nhánh đột ngột thành ngõ cụt do điều kiện đặc biệt của địa hình.
Nhưng du kích quân thông minh và khéo léo Việt Nam, để tiết kiệm sức lực và thời gian, đã đào những đường hầm không sâu lắm, nhưng tính toán thiết kế sao cho, dù trong những trường hợp xe tăng và xe bọc thép di chuyển trên nóc hầm, phía trên bị nã pháo và ném bom- các đường hầm cũng không bị sụt, lún, sập và vẫn bền bỉ phục vụ những người đã xây dựng lên.
Cho đến ngày nay, hệ thống đường hầm - địa đạo nhiều tầng, nhiều lớp phức tạp vẫn còn giữ nguyên được như trong thời chiến tranh, với những nắp hầm và cửa hầm bí mật, liên thông các lối đi ngầm giữa các tầng hầm. Trong hệ thống đường hầm, ở những chỗ khác nhau có những cửa nút kín đặc biệt, được sử dụng để ngăn chặn địch hoặc ngăn chặn khí gas độc. Trên suốt chiều dài của tất cả các đường hầm đều có khoét những lỗ thông hơi và thông gió bí mật, thông lên trên mặt đất và được ngụy trang rất kín đáo. Một phần những cửa thông gió bí mật đều có thể sử dụng như một hỏa điểm bí mật, và đó luôn là một trong những bất ngờ lớn dành cho kẻ thù.
Đối với các du kích thông minh thì điều đó vẫn chưa đủ, đường hầm và những con đường dẫn đến được bố trí vô số những cạm bẫy chết người thông minh và khéo léo kết hợp với những hầm chông và các hố bẫy nguy hiểm khác. Đường vào hầm và ra khỏi hầm, để đảm bảo bí mật và an toàn cao, bố trí các trận địa mìn chống tăng và chống bộ binh đan xen dày đặc lẫn nhau.
Trong giai đoạn chiến tranh, có những lúc trong hệ thống đường hầm chứa được cả 1 đạo quân hoặc dân cư của cả một làng, điều đó giúp cho người Việt Nam bảo vệ được nhiều sinh mạng. Trong đường hầm có các kho dự trữ vũ khí trang bị, đạn và chất nổ các loại, lương thực thực phẩm và cơ sở vật chất ý tế chiến trường, có các bếp ăn không có khói (bếp Hoàng Cầm), bệnh viện dã chiến dành cho người bị thương, các căn hầm - phòng ngủ, các ban chỉ huy dã chiến, hầm trú ẩn và sinh hoạt dành cho phụ nữ, trẻ em và người già.
Nói chính xác hơn, đây không phải là làng mà là cả một thành phố trong lòng đất. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh, người Việt Nam cũng không quên văn hóa và giáo dục: trong các căn hầm được bố trí các phòng học, đồng thời nơi đó cũng có thể dùng để chiếu phim cách mạng và biểu diễn văn nghệ của các đoàn văn công chiến trường. Nhưng đặc biệt hơn, cả thế giới đó ẩn sâu bí mật trong lòng đất.
Dùng cả đến máy bay ném bom chiến lược B-52 và pháo binh hạng nặng, người Mỹ đã chà xát vùng Củ Chi nhiều năm trời, nhưng vô số các cuộc ném bom và các đợt pháo kích liên tục không đem lại kết quả mong muốn, Củ Chi vẫn là vùng đất chết cho lính thủy đánh bộ Mỹ và các thiết đoàn Sài Gòn, người Mỹ buộc phải tự mình chui xuống những địa đạo tối tăm đó. Không giống như những bộ phim của Holywood, (những con chuột đường hầm - Tunnel rats) được lựa chọn từ những binh sĩ không cao to, người gầy và liều lĩnh, sẵn sàng với một khẩu súng ngắn chui vào bóng đêm của cái chết. Trong đường hầm đó, chờ đợi lính Mỹ là sự chật chội đến nghẹt thở, bóng tối mù mịt, mìn, cạm bẫy, rắn độc, bò cạp, và sau đó nữa là những người du kích thiện chiến.
Những 'con chuột' đường hầm chui xuống địa đạo Củ Chi.
Hệ thống địa đạo 3 tầng được đào vào trong nền đất sét cứng bằng những dụng cụ nông nghiệp thô sơ của rất nhiều các tổ nhóm người của nhiều thế hệ người dân Củ Chi, mỗi tổ đào hầm có từ 3 đến 4 người. Một người đào, một người kéo đất từ trong hầm ra một cái giếng sâu thẳng đứng, một người kéo thúng đất đào được lên phía trên, một người khiêng vác đi đâu đó, đổ giấu bí mật dưới những lùm cây rậm rạp hoặc đổ rải xuống sông.
Khi các tổ đào đã thông được địa đạo với nhau, giếng đào được đặt một cây tre thông xuốt làm ống thông hơi, giếng đào được lấp đi, lèn chặt và ống thông hơi được ngụy trang dưới dạng tổ mối hoặc gốc cây mục hay bất cứ hình dạng nào khác....
Cửa hầm bí mật chỉ có người Việt Nam mới có thể chui lọt.
Người Mỹ quyết định sử dụng chó săn để tìm kiếm những lỗ thông hơi và đường ra vào địa đạo. Các chiến sĩ du kích Củ Chi sử dụng quần áo lính Mỹ, thông thường là áo khoác M65 (người Việt hay gọi là áo Mỹ) mà lính mỹ thường vất đi khi bị thương hoặc băng bó vết thương. Chó săn ngửi thấy mùi quen thuộc của Mỹ bỏ qua. Sau này du kích sử dụng hạt tiêu xay nhỏ vô hiệu hóa khứu giác của chó săn hoặc các bánh xà phòng của Mỹ, có tác dụng lâu hơn để đánh lừa chó săn của địch.
Nhiều trường hợp các cửa hầm bí mật cũng được tìm thấy, lính Mỹ cố gắng bơm nước hoặc khí gaz CS (làm cay, chảy nước mắt) vào đường hầm. Nhưng hệ thống nhiều tầng, nhiều ngách của địa đạo với vô số cánh cửa khép kín và các đường hầm ngập nước đã vô hiệu hóa mọi nỗ lực của quân đội Mỹ, du kích Việt Nam chỉ đơn giản mất đi một khúc đường hầm, đánh sập tường của đường hầm bịt kín luôn cả hai đầu và quên luôn đoạn hầm đó, họ đào một đường hầm khác đi vòng qua và mọi nỗ lực của lính Mỹ không đem lại kết quả gì.
Đường hầm với những cửa lọc khí và cửa lọc nước, ngăn chất độc hóa học
Mô hình công binh xưởng dưới lòng địa đạo Củ Chi
Địa đạo Củ Chi trong suốt những năm chiến tranh không chỉ là công sự, là hầm trủ ẩn mà còn đóng vai công binh xưởng, cung cấp vũ khí, trang thiết bị chiến tranh thô sơ và thô sơ kết hợp với hiện đại nhằm tiêu diệt quân thù. Đối với du kích, sắt thép và thuốc nổ là những vật chất vô cùng quý giá, và người Mỹ cung cấp đều đặn thông qua các đợt đánh phá mưa bom bão đạn (chỉ cần có dấu hiệu nghi ngờ - ánh sáng, làn khói, tiếng động..) ngay tức khắc các thảm bom B-52 sẽ quét sạch cây cối trong khu vực, biến một vùng rộng lớn thành bề mặt của mặt trăng.
Mìn chống tăng tự tạo, dàn phóng bom bi tự tạo của du kích Vành đai thép Củ Chi.
Nhưng chiến sĩ du kích dũng cảm thu nhặt những quả bom lớn nhỏ - từ bom phá, bom xuyên đến bom bi, đạn pháo của địch, một số loại bom lớn được tháo kíp, cưa ra để lấy thuốc nổ, các loại nhỏ hơn dễ mang vác như đạn pháo 105, bom bi, đạn 20 ly được sử dụng làm các loại mìn tự tạo. Sắt thép được sử dụng để rèn lên các mũi chông và đinh nhọn phục vụ cạm bẫy và các vật dụng chiến trường khác.
Ngoài các công binh xưởng, trong địa đạo có đầy đủ nhà ăn tập thể, bếp tập thể Hoàng Cầm, xưởng may mặc đồ quân dụng và dân sự. Rừng rậm Việt Nam và đất thép Củ chi mang trong mình nó rất nhiều những bất ngờ nguy hiểm đối với kẻ thù, nó có thể là những quả mìn tự chế, đủ sức xuyên thủng cả xe tăng M41, hoặc cũng có thể là những chiếc bẫy thô sơ tự chế, được Holywood sử dụng trong những bộ phim chiến tranh nổi tiếng của mình. Thực tế của những vũ khí đó đang còn được trưng bày ở Viện bảo tàng Củ Chi.
Xe tăng chiến lợi phẩm M48, một thời kỳ là sở chỉ huy của du kích Củ Chi.
Những cạm bẫy kinh hoàng
Trong chiến tranh chống Mỹ, vũ khí thô sơ đã đóng một vai trò quan trọng, nó bẻ gẫy ý chí xâm lược của kẻ thù. Chúng ta hãy xem những vũ khí tự chế - sự khiếp sợ mà người Việt Nam dành cho quân xâm lược.
Cạm bẫy của Việt Nam, là những vũ khí thô sơ tự chế, nhưng vô cùng nguy hiểm và hiệu quả, đã làm cho lực lượng viễn chinh Mỹ tổn thất khá nhiều về sinh lực. Có thể, một ngày nào đó, chúng ta cũng phải dùng đến những kiểu vũ khí tương tự.
Hầm chông gây ra nỗi khiếp đảm cho lính Mỹ
Hầm chông bẫy cọp - GIS (lính Mỹ) đang cơ động nhẹ nhàng trên đường mòn, bất ngờ đất dưới chân anh ta sụt xuống và lính Mỹ rơi vào một cái hố đầy chông tre hoặc chông sắt sắc nhọn. Nếu như anh ta may mắn và không chết ngay, anh ta sẽ gào lên vì đau đớn, các binh sĩ còn lại sẽ xúm vào tìm cách lôi anh ta lên khỏi cái hầm chông kinh hoàng đó. Thông thường xung quanh hầm chông đó có những cửa bí mật, những hỏa điểm đáng sợ của các xạ thủ du kích bắn tỉa.
Quà tặng của Việt Nam (Vietnamese souvenir)- còn gọi là Chông thò. Một vũ khí tự tạo có tính chất công nghệ. Trong hố sâu có chông sắt cắm chéo, phái trên có một tấm ván tròn có dây dù kéo căng, nối với những mũi đinh sắt dài sắc nhọn. Khi GIS dẫm chân lên cái hố được ngụy trang kỹ càng bằng lá khô, cỏ hoặc đất, chân bị thụt xuống và kéo theo cả tấm ván mỏng, những chiếc đinh sắt từ 4 bên đâm xuyên vào đùi và các cây chông đâm chéo vào cổ chân, không thể kéo người bị thương ra khỏi hố nếu không đào rộng ra và lôi cả những chiếc đinh lên. Thường trong trường hợp đó, binh sĩ không chết nhưng chắc chắn bị tổn thương hoàn toàn phần chân, phải nhanh chóng đưa về quân y viện ở Sài Gòn để mổ, người lính được tặng những chiếc đinh làm kỷ niệm, do đó Chông thò còn có tên là Kỷ niệm Việt Nam.
Chông hom - Một loại chông có cấu trúc như cái hom giỏ cả, các mũi nhọn không những có trách nhiệm đâm vào cổ chân, mà còn buộc GIS không thể di chuyển được. Chông hom thường được ngâm dưới ruộng nước hoặc bãi bùn lầy bên dòng sông. Lính đổ bộ nhẩy từ trên máy bay trực thăng xuống hoặc từ xuồng trên sông và ...đứng yên với cái hom sắt xuyên sâu vào cổ chân.
Cũng có những thứ vũ khí tự tạo không đơn thuần chỉ sát thương, mà còn tạo lên những cơn ác mộng kinh hoàng cho người còn lại - chông trục xoay. Trên 2 trục tròn quay tự do được gắn những chiếc chông - đinh sắt, dẫm chân lên, GIS nhanh chóng tạo ra rất nhiều lỗ thủng trên cơ thể.
Đối với những kẻ thích đột nhập vào nhà mà không gõ cửa, hoặc phá cửa bằng một cú đạp của giày đinh, du kích Việt Nam rộng lòng tặng cho họ loại Chông bổ có cấu trúc khác đặc biệt, đơn giản là 2 thanh chữ T nối với nhau theo kiểu neo đập lúa, được buộc lên trên trần nhà và nối với cánh cửa, khi cánh cửa được mở ra hết tầm, chông bổ sẽ lao xuống và GIS đi thẳng xuống địa ngục, nếu anh ta kịp đưa súng lên đỡ, phần từ đùi và bụng sẽ bị tổn thương chắc chắn.
Chông cánh. Đây là một kiểu chông rất đơn giản. Các chiến sĩ du kích nhỏ tuổi của Việt Nam đã chế tạo nó trong các giờ thực hành. Nguyên tắc thực sự đơn giản. Đặt hai tấm ván sát nhaucó cắm chông sắt vào một chiếc hố nhỏ có hai bậc và khi kẻ thù dẫm vào cái hố đó, những chiếc đinh nhọn, đã được nhiễm bẩn đâm xuyên vào cổ chân. Đảm bảo chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng vết thương và nhiễm trùng máu nếu không kịp đưa đến bệnh viện.
Chông cần cối - Được chế tạo theo nguyên tắc đòn bẩy, trên các tấm ván cả hai đầu cần có những chiếc chông sắt nhọn. Khi kẻ thù giẫm chân lên một đầu, đầu kia sẽ bật lên và đập thẳng vào vùng ngực và đầu với những chiếc chông.
Chông nách- được tạo lên từ hai tấm ván cắm đầy đinh dài sắc nhọn, có thể di chuyển về hai phía và gắn vào với nhau bằng dây cao su hay lò xo. Hai tấm ván được kéo dãn ra và được chống bằng thanh chống ngang - thường là thanh tre cứng. Khi lính Mỹ bước lên trên hố và dẫm tụt thanh chống, anh ta sẽ rơi xuống hố và giang hai tay ra chống đỡ cú thụt hố, hai tấm ván với những cái đinh di chuyển vào giữa găm vào thân thể người lọt bẫy.
Chông bồ cào. Mở rộng cửa đón những GIS, chế tạo cái bẫy này khá đơn giản. Chỉ cần hai ống tre đặc gắn lại với nhau thành hình chữ T, thanh ngang được đóng những chiếc chông nhọn sắc dài, chông bổ được treo lên cao, nối với một cái dây và sợi dây nhỏ được giăng ngang mặt đất - thường sử dụng dây cước để khó nhận ra, khi lính địch bước vào cửa và vướng vào sợi dây, kết quả sẽ là hai ống chân hoặc bắp đùi sẽ bị chông xuyên thủng.
Ngoài ra, còn có chông cánh cửa, chông tự động, có cấu tạo tương tự những loại cạm bẫy đã nêu, nhưng tùy theo tình huống và địa hình để bố trí sắp đặt.
Trong những khu vực rừng rậm nhiệt đới chưa bị sự tàn phá dữ dội của pháo bầy và bom rải thảm, lính Mỹ vấp phải những cái bẫy săn thú lớn như trâu bò rừng, hổ báo.
Bẫy cần bật - Dùng một cây tre già uốn cong, đầu thân cây che được gắn những thanh tre hoặc gỗ vót nhọn, buộc vào một cái giá để giữ và kết nối với sơi dây bẫy, thường là dây cước cần câu mỏng manh giăng đâu đó ngang tầm đầu gối trên đường mòn. Khi kẻ thù vướng vào dây bẫy, dây kéo căng sẽ tháo chốt hãm cần bật, và cây tre cùng với những thanh tre, gỗ vót nhọn sẽ quất ngang thân thể binh sĩ không may mắn. Thông thường khi trúng, binh sĩ tử thương ngay tức khắc.
Bẫy chông treo, tương tự như bẫy cần bật là một khúc gỗ, một giỏ đá hoặc bao đá, cắm đầy những mũi chông tre hoặc sắt sắc nhọn, thường được đặt, treo ở trên các thân cây cao ngoài tầm nhìn, kết nối với dây bẫy, khi đối phương vướng vào hoặc được một chiến sĩ du kích nấp đâu đó giật mạnh, khúc gỗ, bao đá cắm chông sẽ lao từ trên xuống nạn nhân, thông thường để tấn công nhóm binh sĩ đông người.
Bẫy chông rơi, cũng tương tự như chông treo, là một tấm đan bằng những thanh tre già, cứng, gắn tua tủa những mũi chông sắc nhọn, đặt thêm vật nặng như đá, gạch để tăng cường sức tấn công, khi đối phương rơi vào bẫy, dàn chông sẽ lao xuống cùng với gạch đá sát thương đối phương.
Ngoài những chiếc bẫy chông khá phức tạp, lính Mỹ còn phải đối mặt với những loại vũ khí tự tạo vô cùng nguy hiểm nhưng lại rất khó chịu vì khó tìm kiếm. và sức sáng tạo của các loại vũ khí sát thương đó thì dường như là vô cùng, từ những mũi xiên săn thú rừng, quả lựu đạn mỏ vịt, đến những viên đạn 7,62mm, đạn 12,7 mm thông thường, thêm một chút sáng tạo vào, và đó là những cái bẫy chết người.
Bẫy mũi xiên. Một mẫu kết hợp giữa nỏ của người Tây nguyên và ống phóng xiên cá đồng bằng Bắc bộ, mũi xiên được nén lại bằng lò xo hoặc đặt trên dàn phóng căng của dây cao su, hãm bằng chốt cành cây với 1 sơi dây cước dùng thể tháo chốt hãm, khi lính Mỹ đá vào dây, chốt hãm bung ra và mũi xiên, đã được nhiễm bẩn - có thể là dầu máy hoặc máu cá xuyên ngang người hoặc ống chân, bắp đùi, đảm bảo chắc chắn nhiễm trùng máu.
Bẫy bằng đạn bắn thẳng; một cái ống tre, cắm vào một miếng sắt có một cái vấu như kim hỏa, một cái lò xo bút bi và viên đạn. Chôn bẫy đó trên đường mòn, khi GIS dẫm chân lên, viên đạn đi xuống phía dưới và chạm vào kim hỏa vấu. Nhẹ thì đạn xuyên qua bàn chân, bị thương nặng hơn có thể là cả chân hoặc tử vong.
Bẫy lựu đạn: Quả lựu đạn mỏ vịt được rút chốt và nhét vào ống bơ sữa bò hoặc ống tre, buộc ngang trong bụi rậm hoặc ngâm trong vũng nước bùn lầy hay kênh, rạch. Khi lính thủy đánh bộ hoặc biệt kích, lính bộ binh đi qua gạt vào sơi dây, quả lựu đạn bung ra. Kết quả tất nhiên sẽ rất tàn khốc đối với nhóm binh sĩ không may mắn.
Theo xahoi
Hải quân hỗ trợ ngư dân bám biển Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân thời gian qua đã tổ chức các lực lượng, phương tiện kịp thời tham gia cứu hộ, cứu nạn tàu cá, ngư dân và tàu hàng bị nạn trên biển, lai kéo về đất liền; kịp thời kêu gọi trên 12.000 lượt tàu cá, ngư dân tránh trú bão an toàn. Ngày 5-4, báo cáo tại...