Tướng Nguyễn Huy Hiệu: Việt Nam sẽ thắng mọi kẻ thù
Thượng tướng, viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu nói nghệ thuật quân sự Việt Nam là thế trận lòng dân mà không nước nào có được.
Tướng Hiệu nói: Nhìn lại 4.000 năm lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta, các thế lực xâm lược đều bị thất bại. Đất nước ta lúc thịnh lúc suy, nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ.
Việt Nam cũng có nền văn hóa lâu đời mà không thế lực nào có thể khuất phục được. Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có câu nói nổi tiếng: Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo.
Con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, không xâm lược nước nào, nhưng cũng không kẻ thù nào khuất phục được dân tộc Việt Nam. Không có thế lực nào có thể phá vỡ được sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Thượng tướng, Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu: “Việt Nam sẽ chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”
Thưa Thượng tướng, những điều chúng ta đạt được ngày nay đã xứng tầm với sự hy sinh xương máu của các thế hệ đi trước?
Tôi cho rằng Việt Nam chúng ta đã có những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, nhưng cũng chưa thật sự đạt được mong muốn của nhân dân đối với sự hy sinh của hàng triệu người đã góp xương máu cho nền độc lập dân tộc trong các cuộc kháng chiến.
Chúng ta tự hào đã có những bước tiến rõ rệt về kinh tế, chẳng hạn như việc gia nhập WTO, xóa đói giảm nghèo…
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có những quyết sách và bước đi đột phá tốt hơn, thì bước tiến của Việt Nam sẽ vững vàng hơn, nhanh hơn nữa.
Hiện tại, chúng ta vẫn còn gặp một số vấn đề như tham nhũng, lãng phí khiến nền kinh tế bị trì trệ. Tôi nghĩ nếu không có biện pháp mạnh mẽ, thì không chỉ trong năm 2013 mà thậm chí sang năm 2014 nền kinh tế chúng ta vẫn khó khăn.
Trong vấn đề xóa đói giảm nghèo, chúng ta đã làm được nhiều việc, nhưng chưa đồng bộ. Vẫn còn nhiều nơi rất nghèo, những cái làm được mới chỉ thể hiện ở các thị xã, trung tâm thành phố và một số trọng điểm.
Về chủ quyền biển đảo, chúng ta làm khá tốt công tác thông tin tuyên truyền nhưng sự đầu tư tiền của lại chưa thực sự ngang tầm.
Nghĩa là một số chương trình hỗ trợ của chúng ta chưa thực sự hiệu quả?
Đúng vậy. Tôi nói ví dụ như chuyện đầu tư cho nhân dân đánh cá xa bờ, giữ gìn chủ quyền biển đảo. Chúng ta cần có chiến lược biển và sự đầu tư đúng mức cho biển đảo để nhân dân thực sự làm chủ trên biển. Cần có phương tiện hiện đại để đánh bắt, chế biến ngay trên biển rồi sau đó xuất khẩu, buôn bán hải sản…
Tôi nghĩ phải nghiên cứu ngay và có thể liên doanh với các tổ chức khai thác hải sản nước ngoài trong đánh bắt hải sản để ngư dân bám biển tốt hơn. Người ta có điều kiện sở hữu tàu lớn, công nghệ chế biến tốt nên ngư dân không phải đưa cá về đất liền.
Mỗi chuyến ra biển, thậm chí ngư dân có thể nửa năm sau mới cần phải quay lại bờ. Như thế thì mỗi ngư dân thực sự là một người lính, chung sức với hải quân, biên phòng, cảnh sát biển và chiến sỹ trên các đảo thành tổ hợp hoàn chỉnh gìn giữ chủ quyền biển đảo.
“Đất nước ta lúc thịnh lúc suy, nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ”
Thượng tướng, Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu trả lời phỏng vấn
Vậy nguyên nhân từ đâu khiến những bước tiến của chúng ta chưa đủ nhanh, đủ mạnh, thưa ông?
Vấn đề là chiến lược của chúng ta đã có, phải khẳng định rằng đường lối, chủ trương của Việt Nam rất tốt. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ khâu thực hiện chưa có sự đột phá.
Tôi ví dụ như việc gìn giữ chủ quyền biển đảo, chúng ta cần làm điểm. Chẳng hạn có thể cho một số tỉnh như Quảng Ngãi, Khánh Hòa làm liên doanh với nước ngoài trong việc đánh bắt xa bờ. Sau khi thành công, chúng ta sẽ nhân rộng mô hình này ra các tỉnh khác.
Trước kia, chúng tôi đánh giặc cũng vậy, đánh rút kinh nghiệm từng lọai hình chiến thuật từ thấp đến cao rồi mới đánh tập trung tiêu diệt lớn.
Năm 1975, thế của chúng ta chưa mạnh hơn địch, nên phải chọn điểm yếu là Ban Mê Thuột để mở màn chiến dịch, tạo hiệu ứng khiến cả miền Nam rung chuyển rồi từ đó tấn công trên khắp chiến trường và mở chiến dịch Hồ Chí Minh tấn công giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước.
Nhìn lại tương quan lực lượng giữa Việt Nam và các quốc gia khác, Thượng tướng đánh giá thế nào về tiềm lực quân sự Việt Nam?
Nghệ thuật quân sự Việt Nam là luôn biết cách lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều. Trong chặng đường đấu tranh, giải phóng dân tộc, Đảng, quân đội, nhân dân Việt Nam luôn tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng trận địa trong lòng dân, chọn thời điểm, thời cơ để đánh vào điểm yếu của địch.
Video đang HOT
Có thể nói Việt Nam đánh địch bằng “mưu kế, thế trận” và sẽ thắng địch bằng thế thời. Trong trận Điện Biên Phủ, chúng ta biết tập trung sức mạnh, lực lượng lớn mạnh hơn địch, bao vây tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm này, dẫn tới thực dân Pháp thất bại và ngồi vào bàn đám phán, ký Hiệp định Geneve chấm dứt chiến tranh.
Khi chúng ta đánh Mỹ cũng vậy. Trang bị của chúng ta không mạnh bằng quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn nhưng chúng ta chọn thời cơ và có nghệ thuật, cách đánh táo bạo, quyết đoán và hợp lý.
Năm 1968, ta đánh vào đầu não địch giữa lúc chúng đang rất mạnh, đánh đúng đầu não địch khiến chiến trường rung chuyển, thay đổi cục diện chiến tranh. Năm 1971, chúng ta thực hiện chiến dịch đường 9 Nam Lào đánh bại kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh với chiến lược của địch là lính ngụy kết hợp hỏa lực Mỹ.
Tiếp theo, chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội tháng 12-1972 là một mốc son lịch sử, đỉnh cao thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi đó, càng thấy rõ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự báo để chúng ta có điều kiện chuẩn bị trước “Không để tổ quốc bị bất ngờ trong chiến dịch Hà Nội – Điện biên phủ trên không”.
Sinh thời, Người khẳng định: “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Khi đó, chúng ta tiếp tục tích lũy lực lượng, chuẩn bị cho tổng tiến công, nổi dậy mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trận Ban Mê Thuột, chúng ta điểm vào đúng yếu huyệt của địch, để rồi giành thắng lợi lịch sử ngày 30/4/1975.
Nhìn chung, quân đội Việt Nam giỏi nhất là mưu kế, thế trận và thắng địch bằng thế thời. Khi thời cơ đến, chúng ta tập trung lực lượng đánh những trận quyết định và giành thắng lợi. Và quan trọng nhất, nghệ thuật nhất là “thế trận lòng dân” độc đáo mà thế giới có…
Tàu ngầm lớp Kilo Việt Nam mua của Nga – Ảnh: Defendnews
Thượng tướng đánh giá thế nào về trang bị của quân đội ta?
Trang bị vũ khí là điều cần thiết cho bất cứ quân đội nước nào. Chúng ta có nghệ thuật quân sự, nhưng cũng cần vũ khí mạnh để đủ sức răn đe.
Làm tốt điều đó là chúng ta đã góp phần đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Điều quyết định vẫn là con người phải làm chủ được khoa học công nghệ và cải tiến cho phù hợp với điều kiện và cách đánh của ta.
Tôi nhấn mạnh rằng chủ quyền đất nước bao gồm chủ quyền cả trên biển, trên không, trên đất liền. Và tùy từng nơi, từng lúc mà chúng ta có những chiến lược phù hợp để bảo vệ chủ quyền.
Việc quân đội Việt Nam tăng cường lực lượng với máy bay, tàu ngầm hiện đại là rất cần thiết để tăng sức mạnh răn đe và khả năng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Về vấn đề biển đảo đang tranh chấp hiện nay, xin cho biết quan điểm của ông?
Tôi khẳng định Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và chủ quyền của Việt Nam với Trường Sa, Hoàng Sa là điều không có gì phải bàn cãi. Ngay ở đất nước họ, nhiều nhà khoa học, nhà lịch sử cũng phản đối điều này và cho rằng cái gọi là “đường lưỡi bò” là hết sức phi lý và dẫm đạp lên luật pháp quốc tế.
Chúng ta sẵn sàng đàm phán song phương và đa phương để tìm ra cách giải quyết những vấn đề tồn tại trên cơ sở công ước Liên Hợp Quốc về luật biển quốc tế 1982 và tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng như Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
Mối quan hệ Việt Nam, Trung Quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông gây dựng nên. Tôi cho rằng các thế hệ về sau phải biết tôn trọng, giữ đúng tinh thần của hai nhà lãnh tụ.
Hiện nay, chúng ta vẫn kiên định đường lối “độc lập, tự chủ” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam sẵn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước, nhất là các nước láng giềng.
Trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, hai Đảng, hai Nhà nước đã thỏa thuận được phương châm 16 chữ vàng “Láng giềng thân thiện / Hợp tác toàn diện/ Ổn định lâu dài / Hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt / Bạn bè tốt / Đồng chí tốt / Đối tác tốt”.
Trung Quốc là một nước lớn và thông tin đa chiều nên tôi nghĩ các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải lắng nghe các chuyên gia, nhà khoa học thế giới và chính các chuyên gia Trung Quốc phân tích thấu đáo để có hướng và từng bước giải quyết trên cơ sở luật pháp Quốc tế mà họ đã cam kết.
Tôi cũng tin tưởng rằng, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc sẽ sớm tìm được cách giải quyết phù hợp với mong đợi của nhân dân thế giới và nhân dân 2 nước, nhất là trong tình hình như hiện nay.
Tướng Nguyễn Huy Hiệu: Việt Nam sẽ thắng mọi kẻ thù
Thượng tướng, viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu nói nghệ thuật quân sự Việt Nam là thế trận lòng dân mà không nước nào có được.
Tướng Hiệu nói: Nhìn lại 4.000 năm lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta, các thế lực xâm lược đều bị thất bại. Đất nước ta lúc thịnh lúc suy, nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ.
Việt Nam cũng có nền văn hóa lâu đời mà không thế lực nào có thể khuất phục được. Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có câu nói nổi tiếng: Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo.
Con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, không xâm lược nước nào, nhưng cũng không kẻ thù nào khuất phục được dân tộc Việt Nam. Không có thế lực nào có thể phá vỡ được sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Thượng tướng, Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu: “Việt Nam sẽ chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”
Thưa Thượng tướng, những điều chúng ta đạt được ngày nay đã xứng tầm với sự hy sinh xương máu của các thế hệ đi trước?
Tôi cho rằng Việt Nam chúng ta đã có những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, nhưng cũng chưa thật sự đạt được mong muốn của nhân dân đối với sự hy sinh của hàng triệu người đã góp xương máu cho nền độc lập dân tộc trong các cuộc kháng chiến.
Chúng ta tự hào đã có những bước tiến rõ rệt về kinh tế, chẳng hạn như việc gia nhập WTO, xóa đói giảm nghèo…
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có những quyết sách và bước đi đột phá tốt hơn, thì bước tiến của Việt Nam sẽ vững vàng hơn, nhanh hơn nữa.
Hiện tại, chúng ta vẫn còn gặp một số vấn đề như tham nhũng, lãng phí khiến nền kinh tế bị trì trệ. Tôi nghĩ nếu không có biện pháp mạnh mẽ, thì không chỉ trong năm 2013 mà thậm chí sang năm 2014 nền kinh tế chúng ta vẫn khó khăn.
Trong vấn đề xóa đói giảm nghèo, chúng ta đã làm được nhiều việc, nhưng chưa đồng bộ. Vẫn còn nhiều nơi rất nghèo, những cái làm được mới chỉ thể hiện ở các thị xã, trung tâm thành phố và một số trọng điểm.
Về chủ quyền biển đảo, chúng ta làm khá tốt công tác thông tin tuyên truyền nhưng sự đầu tư tiền của lại chưa thực sự ngang tầm.
Nghĩa là một số chương trình hỗ trợ của chúng ta chưa thực sự hiệu quả?
Đúng vậy. Tôi nói ví dụ như chuyện đầu tư cho nhân dân đánh cá xa bờ, giữ gìn chủ quyền biển đảo. Chúng ta cần có chiến lược biển và sự đầu tư đúng mức cho biển đảo để nhân dân thực sự làm chủ trên biển. Cần có phương tiện hiện đại để đánh bắt, chế biến ngay trên biển rồi sau đó xuất khẩu, buôn bán hải sản…
Tôi nghĩ phải nghiên cứu ngay và có thể liên doanh với các tổ chức khai thác hải sản nước ngoài trong đánh bắt hải sản để ngư dân bám biển tốt hơn. Người ta có điều kiện sở hữu tàu lớn, công nghệ chế biến tốt nên ngư dân không phải đưa cá về đất liền.
Mỗi chuyến ra biển, thậm chí ngư dân có thể nửa năm sau mới cần phải quay lại bờ. Như thế thì mỗi ngư dân thực sự là một người lính, chung sức với hải quân, biên phòng, cảnh sát biển và chiến sỹ trên các đảo thành tổ hợp hoàn chỉnh gìn giữ chủ quyền biển đảo.
“Đất nước ta lúc thịnh lúc suy, nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ”
Thượng tướng, Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu trả lời phỏng vấn
Vậy nguyên nhân từ đâu khiến những bước tiến của chúng ta chưa đủ nhanh, đủ mạnh, thưa ông?
Vấn đề là chiến lược của chúng ta đã có, phải khẳng định rằng đường lối, chủ trương của Việt Nam rất tốt. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ khâu thực hiện chưa có sự đột phá.
Tôi ví dụ như việc gìn giữ chủ quyền biển đảo, chúng ta cần làm điểm. Chẳng hạn có thể cho một số tỉnh như Quảng Ngãi, Khánh Hòa làm liên doanh với nước ngoài trong việc đánh bắt xa bờ. Sau khi thành công, chúng ta sẽ nhân rộng mô hình này ra các tỉnh khác.
Trước kia, chúng tôi đánh giặc cũng vậy, đánh rút kinh nghiệm từng lọai hình chiến thuật từ thấp đến cao rồi mới đánh tập trung tiêu diệt lớn.
Năm 1975, thế của chúng ta chưa mạnh hơn địch, nên phải chọn điểm yếu là Ban Mê Thuột để mở màn chiến dịch, tạo hiệu ứng khiến cả miền Nam rung chuyển rồi từ đó tấn công trên khắp chiến trường và mở chiến dịch Hồ Chí Minh tấn công giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước.
Nhìn lại tương quan lực lượng giữa Việt Nam và các quốc gia khác, Thượng tướng đánh giá thế nào về tiềm lực quân sự Việt Nam?
Nghệ thuật quân sự Việt Nam là luôn biết cách lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều. Trong chặng đường đấu tranh, giải phóng dân tộc, Đảng, quân đội, nhân dân Việt Nam luôn tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng trận địa trong lòng dân, chọn thời điểm, thời cơ để đánh vào điểm yếu của địch.
Có thể nói Việt Nam đánh địch bằng “mưu kế, thế trận” và sẽ thắng địch bằng thế thời. Trong trận Điện Biên Phủ, chúng ta biết tập trung sức mạnh, lực lượng lớn mạnh hơn địch, bao vây tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm này, dẫn tới thực dân Pháp thất bại và ngồi vào bàn đám phán, ký Hiệp định Geneve chấm dứt chiến tranh.
Khi chúng ta đánh Mỹ cũng vậy. Trang bị của chúng ta không mạnh bằng quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn nhưng chúng ta chọn thời cơ và có nghệ thuật, cách đánh táo bạo, quyết đoán và hợp lý.
Năm 1968, ta đánh vào đầu não địch giữa lúc chúng đang rất mạnh, đánh đúng đầu não địch khiến chiến trường rung chuyển, thay đổi cục diện chiến tranh. Năm 1971, chúng ta thực hiện chiến dịch đường 9 Nam Lào đánh bại kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh với chiến lược của địch là lính ngụy kết hợp hỏa lực Mỹ.
Tiếp theo, chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội tháng 12-1972 là một mốc son lịch sử, đỉnh cao thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi đó, càng thấy rõ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự báo để chúng ta có điều kiện chuẩn bị trước “Không để tổ quốc bị bất ngờ trong chiến dịch Hà Nội – Điện biên phủ trên không”.
Sinh thời, Người khẳng định: “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Khi đó, chúng ta tiếp tục tích lũy lực lượng, chuẩn bị cho tổng tiến công, nổi dậy mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trận Ban Mê Thuột, chúng ta điểm vào đúng yếu huyệt của địch, để rồi giành thắng lợi lịch sử ngày 30/4/1975.
Nhìn chung, quân đội Việt Nam giỏi nhất là mưu kế, thế trận và thắng địch bằng thế thời. Khi thời cơ đến, chúng ta tập trung lực lượng đánh những trận quyết định và giành thắng lợi. Và quan trọng nhất, nghệ thuật nhất là “thế trận lòng dân” độc đáo mà thế giới có…
Tàu ngầm lớp Kilo Việt Nam mua của Nga – Ảnh: Defendnews
Thượng tướng đánh giá thế nào về trang bị của quân đội ta?
Trang bị vũ khí là điều cần thiết cho bất cứ quân đội nước nào. Chúng ta có nghệ thuật quân sự, nhưng cũng cần vũ khí mạnh để đủ sức răn đe.
Làm tốt điều đó là chúng ta đã góp phần đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Điều quyết định vẫn là con người phải làm chủ được khoa học công nghệ và cải tiến cho phù hợp với điều kiện và cách đánh của ta.
Tôi nhấn mạnh rằng chủ quyền đất nước bao gồm chủ quyền cả trên biển, trên không, trên đất liền. Và tùy từng nơi, từng lúc mà chúng ta có những chiến lược phù hợp để bảo vệ chủ quyền.
Việc quân đội Việt Nam tăng cường lực lượng với máy bay, tàu ngầm hiện đại là rất cần thiết để tăng sức mạnh răn đe và khả năng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Về vấn đề biển đảo đang tranh chấp hiện nay, xin cho biết quan điểm của ông?
Tôi khẳng định Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và chủ quyền của Việt Nam với Trường Sa, Hoàng Sa là điều không có gì phải bàn cãi. Ngay ở đất nước họ, nhiều nhà khoa học, nhà lịch sử cũng phản đối điều này và cho rằng cái gọi là “đường lưỡi bò” là hết sức phi lý và dẫm đạp lên luật pháp quốc tế.
Chúng ta sẵn sàng đàm phán song phương và đa phương để tìm ra cách giải quyết những vấn đề tồn tại trên cơ sở công ước Liên Hợp Quốc về luật biển quốc tế 1982 và tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng như Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
Mối quan hệ Việt Nam, Trung Quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông gây dựng nên. Tôi cho rằng các thế hệ về sau phải biết tôn trọng, giữ đúng tinh thần của hai nhà lãnh tụ.
Hiện nay, chúng ta vẫn kiên định đường lối “độc lập, tự chủ” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam sẵn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước, nhất là các nước láng giềng.
Trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, hai Đảng, hai Nhà nước đã thỏa thuận được phương châm 16 chữ vàng “Láng giềng thân thiện / Hợp tác toàn diện/ Ổn định lâu dài / Hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt / Bạn bè tốt / Đồng chí tốt / Đối tác tốt”.
Trung Quốc là một nước lớn và thông tin đa chiều nên tôi nghĩ các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải lắng nghe các chuyên gia, nhà khoa học thế giới và chính các chuyên gia Trung Quốc phân tích thấu đáo để có hướng và từng bước giải quyết trên cơ sở luật pháp Quốc tế mà họ đã cam kết.
Tôi cũng tin tưởng rằng, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc sẽ sớm tìm được cách giải quyết phù hợp với mong đợi của nhân dân thế giới và nhân dân 2 nước, nhất là trong tình hình như hiện nay.
Theo Dantri
Tướng Nguyễn Huy Hiệu viết về Đại thắng mùa Xuân
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong 55 ngày đêm của quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 kết thúc thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Đây là điểm hội tụ những sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam; khẳng định sự đúng đắn về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng; về sức mạnh của chiến tranh nhân dân; về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và phát huy nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm trong lịch sử giữ nước oanh liệt của dân tộc, ở thời đại Hồ Chí Minh ta có chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và đến chiến cuộc mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, là những biểu hiện đặc sắc nhất tài năng sáng tạo của Đảng và nhân dân ta trong nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh để giành thắng lợi. Nghệ thuật đó thể hiện sâu sắc tính kế thừa truyền thống dân tộc, vừa đậm nét tính sáng tạo trong thời đại mới.
Trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ta đã thực hiện thành công phương châm chiến lược đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn quân địch.
Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, nhờ có nghệ thuật chỉ đạo chỉ huy tài giỏi, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, phát hiện sớm và nhạy bén nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời, sử dụng nghệ thuật mưu kế trên nền tảng chiến tranh nhân dân, phát triển tiến công táo bạo và thần tốc, đánh địch bất ngờ và liên tục, nên chiến cuộc mùa Xuân 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn trong thời gian ngắn bằng ba đòn chiến lược: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Sài Gòn.
Đó là nghệ thuật sử dụng lực lượng khôn khéo để luôn đánh địch trên thế mạnh, tạo nên sức mạnh áp đảo quân địch trong chiến đấu, thực hiện những chiến dịch đánh tiêu diệt lớn bằng các đòn chiến lược, buộc địch từ chỗ bị đánh bất ngờ đến bị động lúng túng phải co cụm chiến lược rồi rút lui chiến lược mà dẫn đến sự tan rã và bị thất bại hoàn toàn, thực hiện trọn vẹn mục tiêu: "đánh cho ngụy nhào".
Với 55 ngày đêm cuối cùng của cuộc kháng chiến kéo dài 21 năm, chúng ta đã tập trung toàn bộ sức lực, trí tuệ của cả một dân tộc, đấu mưu, đấu trí một cách quyết liệt nhất để đi đến giành thắng lợi trọn vẹn.
Mưu kế lập ra "hình trận" và "thế trận", tạo ra "thời cơ" làm cho địch nhiều mà hóa ít.
Mở đầu chiến cuộc mùa Xuân 1975 mưu kế chiến lược của ta đã tạo ra một hình trận chiến lược rất đẹp là ghìm địch ở hai đầu Nam Bắc chiến tuyến ở Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng, bằng cách áp sát các quân đoàn chủ lực của ta (Quân đoàn 1 ở bờ Bắc sông Bến Hải, Quân đoàn 2 ở Tây Huế và Quân đoàn 4 ở Đông Bắc Sài Gòn) vào gần các khu vực trọng yếu đó, buộc địch phải tập trung cả hai sư đoàn tổng dự bị chiến lược vào Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng, để sơ hở khoảng giữa là Tây Nguyên.
Hình trận này đã tạo ra thế trận có lợi cho mặt trận Tây Nguyên. Đây là cách nghi binh chiến lược cho đòn tấn công vào quân địch ở Tây Nguyên. Khi địch đã bị giữ chặt ở Huế và Sài Gòn thì ta mở cuộc tiến công lớn ở Tây Nguyên là nơi địch sơ hở và công phá vào Buôn Ma Thuột lại là nơi hiểm yếu của khâu yếu nhất trong hệ thống phòng ngự của địch.
Mưu kế chiến lược tiếp theo là bí mật đưa hai sư đoàn nữa lên Tây Nguyên là mưu kế hay của Bộ Thống soái mà trực tiếp là Tổng Tư lệnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do đột ngột tăng cho tây Nguyên Sư đoàn 316 và Sư đoàn 968 mà địch không hay biết, không kịp đối phó, thành ra tại thời điểm đó ở Tây Nguyên có 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập cùng các binh chủng chiến đấu hùng mạnh, được phối hợp với Sư đoàn 3 (Quân khu 5) đã tạo nên quả đấm thép làm cho lực lượng ta vượt trội hơn địch.
Ở Tây Nguyên, quân ta từ một lực lượng chiến dịch bỗng trở thành một lực lượng chiến lược. Quả đấm thép đó đã đủ sức mạnh đánh ghìm địch ở Plây-cu; cắt Đường 19 và Đường 14; phá vỡ Buôn Ma Thuột và chủ động đánh bại phản kích của Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn, làm nên đột biến về chiến tranh.
Hai sư đoàn và thời cơ tăng thêm cho Tây Nguyên là cái nút trong mưu kế chiến lược đánh bại địch trong chiến cuộc mùa Xuân năm 1975. Địa điểm và thời cơ sử dụng hai sư đoàn này là "chữ thời" về tài năng và trí tuệ trong nghệ thuật chỉ huy.
Ở Tây Nguyên thế trận của ta là nhằm phá vỡ chỗ yếu nhất của đich là ở Buôn Ma Thuột, để từ trên cao phát triển xuống đồng bằng. Mưu kế đó là: nghi binh thu hút, ghìm địch ở đầu manh, để tiến công phá vở địch ở đầu yếu. Mưu kế chiến dịch là đáng nghi binh ở phía Bắc Tây Nguyên; tập trung sức mạnh tiến công địch ở phía Nam.
Hình trận chiến dịch ở Tây Nguyên còn được thể hiện trong việc sử dụng "chính-kỳ". Ở giai đoạn đầu, Sư đoàn 968 được sử dụng như một mũi chính binh, nhưng thực chất lại là đánh nghi binh; còn Sư đoàn 316, các Trung đoàn 24, 95B và các binh chủng là chính binh nhưung được sử dụng một cách bí mật làm kẻ địch bị mất ngờ nên có tính chất như một tập đoàn kỳ binh.
Nhưng sau đó khi thế trận đã bắt đầu chuyển hóa thì "chính", "kỳ" cũng biến hóa một cách linh hoạt. Quá trình thưc hành tấn công địch ở Tây Nguyên, ta dùng lực lượng tương đối lớn (Sư đoàn 968) đánh nghi binh lừa địch ở phía Bắc trước hết nhằm vào Plây-cu làm cho địch tin rằng ta sẽ mở chiến dịch ở Bắc Tây Nguyên. Đó là nghệ thuật nghi binh thần kỳ.
Trong khi đó các đơn bị chủ lực bí mật di chuyển xuống Nam Tây Nguyên (Sư đoàn 10 tiến về Đức Lập, Sư doàn 320 đứng chấn ở Tây Cẩm Ga). Sư đoàn 326 tiến vào Buôn Ma Thuột, tiếp đến Sư đoàn 3 (Quân khu 5) và Trung đoàn 95A đánh cắt Đường 19.
Sư đoàn 320 đánh cắt Đường 14, Trung đoàn 25 cắt Đường 21, tạo ra tthế trận chia cắt địch về chiến lược và chiến dịch, làm cho các cụm quân địch bị cô lập, tách rời nhau, không thể chi viện được cho nhau, tạo thế trận cho Nam Tây Nguyên tập trung đòn đánh vào Buôn Ma Thuột được thuận lợi.
Nhờ đó các mũi đánh chính kết hợp với mũi thọc sâu, vu hồi đã đánh bại một cách nhanh chóng, chiếm được thị xã Buôn Ma Thuột, hoàn thành trận đánh then chốt. Hình trận bao giờ cũng cần có lực lượng dự bị - đội dự bị để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống.
Sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, ta đã linh hoạt, chủ động sử dụng ngay Sư đoàn 10 về làm đội dự bị để sẵn sàng đánh địch phản kịch. Sư đoàn 10 sau khi đánh Đức Lập xong chuyển về Buôn Ma Thuột vừa bố trí đón lõng đánh địch ở nơi ta dự kiến chúng sẽ đổ quân, vừa tiến ông trong hành tiến nên đã đánh bại phản đôt kịch của Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn hòng ứng cứu chiếm lại Buôn Ma Thuột.
Sau khi mất Buôn Ma Thuột và Sư đoàn 23 phản kích bị đánh bại, tất cả các thủ đoạn tác chiến, các hình thức chiến thuật của địch bị đánh bại ở Tây Nguyên, gây ra một sự đột biến về chiến dịch tác động lớn đến chiến lược của chiến dịch, làm hoảng loạn về tư tưởng và thế bố trí chiến lược của địch; buộc địch phải rút lui để co cụm phòng ngự.
Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu liều ra lệnh rút chạy khỏi Tây Nguyên. Khi quân địch rút chạy liền bị quân ta truy kích và đã tiêu diệt phần lớn, phản ứng dây chuyền đó tạo ra đột biến về chiến dịch; chiến dịch đã thắng lợi lại càng thắng lợi hơn, thắng lợi một cách đột ngột, rất nhanh, tạo ra đột biến về chiến tranh.
Chiến thắng của chiến dịch Tây Nguyên là khởi điểm dẫn đến sự tan rã và suy sụp về chiến lược của địch, đồng thời đã cổ vũ, động viên rất mạnh mẽ khí thế của quân và dân ta ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, càng củng cố quyết tâm chiến đấu, lòng tin vào thắng lợi cuối cùng và tạo đà cho quân và dân ta đánh đòn thứ hai ở Huế - Đà Nẵng và mở trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
Thế trận chiến lược phát triển đã tạo ra thời cơ chiến lược.
Trong khi chiến dịch tây Nguyên đang trên đà thắng lơn, ta nhanh chóng đánh địch ở Huế và Đà Nẵng, đến khi chiến dịch Tây Nguyên vừa kết thúc thắng lợi thì đã hoàn thành bước một (giải phóng Thừa Thiên - Huế). Khi tiếng công Đà Nẵng kết thúc thắng lợi, ta đã dồn được toàn lực vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đó là thời co chiến lược.
Trên đà chiến thắng, các binh đoàn chủ lực của ta hành tiến với khí thế "Thần tốc, táo bạo, quyết thắng". Sau khi đập tan tuyến phòng ngự từ xa Phan Rang, cùng với việc giải phóng Bình Thuận, Ninh Thuận, quần đảo Trường Sa, đihcj bị tan vỡ từng mảng một cách nhanh chóng và đột ngột. CHỉ huy đich rối loạn, chiến lược của chúng chuyển sang bị động đối phó và rút lui.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ngày càng quyết liệt. Ta tập trung toàn lực cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. 17 giờ ngày 24-4-1975 thực hành tổng công kích, năm cánh quân của ta gồm 4 quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 trong thế bao vậy Sài Gòn, từ vị trí xuất phát tiến công được lệnh vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn.
Với sức mạnh của 15 sư đoàn và mũi thọc sâu của lữ đoàn xe tăng, 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975 quân ta đánh chiếm dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các chính phủ Sài Gòn, Chiến dịch Hồ Chí Minh giành toàn thắng.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, điểm hội tụ sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, khẳng định sự đúng đắn về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta; về sức mạnh của chiến tranh nhân dân; về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; về phát huy nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc để chống lại mọi cuộc chiến tranh xâm lược là "dĩ đoản chế trường"; "thế thắng lực"; "lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều" vận dụng thế thời một cách tài tình, sáng tạo.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thẳng đã đưa đất nước ta vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng vẻ vang đó mãi mãi cổ vũ và vẫn sẽ là những bài học rất quý báu cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của các thế hệ chúng ta ngày nay và mai sau.
Ngày nay, chiến tranh hiện đại thường sẽ là chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao. Để bảo vệ Tổ quốc, đánh bại được cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của đich đòi hỏi chúng ta vẫn phải tiến hành chiến tranh nahnh dân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Muốn vậy ta phải có vũ khí trang bị hiện đại, có tinh thần quyết tâm cao độ.
Chiến đấu đánh địch ở trên bộ cũng quan trọng như đánh địch ở trên không. Phải đánh mạnh, đánh đau thì mới đánh bại được ý chí xâm lược của địch. Ta có kém địch về vũ khí thì phải vận dụng phương châm lấy hiện đại là chính kết hợp với thô sơ và có một phần vũ khí công nghệ cao để đánh lại hiện đại tinh xảo.
Tinh thần ý chí chiến đấu của toàn dân, toàn quân dưới sự lạnh đạo của Đảng, tài thao lược và trí tuệ tinh hoa sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam vẫn là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi.
Theo vietbao
Quảng Ninh: Bắt được rùa biển màu vàng quý hiếm nặng gần 100 kg Một ngư dân vừa bắt được con rùa biển màu vàng có chiều dài khoảng 1,2m nặng gần 100kg và thuộc nhóm động vật quý hiếm cần được bảo tồn. Chiều ngày 19/3, khi đang thả lưới tại khu vực vùng biển giáp ranh giữa TP. Móng Cái với huyện Hải Hà và huyện Cô Tô, anh Phạm Văn Thái (trú tại thôn...