Tương lai con đường phát triển Việt Nam: Hướng tới Đồng thuận Hà Nội
Tương lai Việt Nam sẽ ra sao? Ta thử tưởng tượng hoặc thử mơ về một ngày nào đó khoảng năm 2025 hay 2030, giới nghiên cứu, giới báo chí cũng như nhiều lãnh đạo chính trị thế giới bắt đầu quen với một cụm từ gọi là Đồng thuận Hà Nội (Hanoi Consensus).
Cụm từ đó nói về một mô hình phát triển kinh tế, xã hội lý tưởng mà các nước còn ở mức thu nhập trung bình đáng tham khảo. Hiện nay dân số thế giới có 7 tỉ người, trong đó độ 1 tỉ thuộc những nước nghèo, 1 tỉ thuộc những nước tiên tiến, còn lại tới 5 tỉ thuộc những nước thu nhập trung bình.
Tương lai con đường phát triển Việt Nam: Hướng tới Đồng thuận Hà Nội
Trong tương lai, Việt Nam phải phát triển thành nước thu nhập trung bình cao, và trong một tầm nhìn dài hơn, Việt Nam cần hướng đến một nước thu nhập cao, đúng như mục tiêu dân giàu nước mạnh đã được đưa ra từ lâu. Ảnh: Mai Lương
Trong nhóm trung bình có hơn phân nửa dân số thuộc trung bình thấp như Việt Nam. Nếu Việt Nam phát triển bền vững, tiến lên nước thu nhập trung bình cao trong sự hài hòa với môi trường và xã hội, từ đó có cơ sở để tin rằng nước ta sẽ có khả năng tiếp tục phát triển để trở thành thành viên của nhóm nước có thu nhập cao thì khái niệm Đồng thuận Hà Nội hay một cụm từ có ý nghĩa tương tự có lẽ sẽ xuất hiện.
Đồng thuận Bắc Kinh và mô hình phát triển Trung Quốc
Từ cuối thập niên 1980, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Chính phủ Mỹ khuyên các nước đang phát triển triệt để theo nguyên lý thị trường, trong đó tự do hóa các hoạt động kinh tế, kể cả việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, giảm trợ cấp các dịch vụ công cộng và tự do mậu dịch. Tư tưởng, chiến lược này được gọi là Đồng thuận Washington (Washington Consensus) và từ đầu thập niên 1990 được cổ xúy, áp dụng cho những nước chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Phương châm chuyển đồng loạt các lĩnh vực sang kinh tế thị trường này còn gọi là chính sách cấp tiến hay liệu pháp sốc.
Trung Quốc không theo chính sách cấp tiến mà là tiệm tiến, trong đó quá trình chuyển sang kinh tế thị trường được tiến hành từng bước, có chọn lựa thứ tự ưu tiên, việc tự do hóa hoặc mở của thị trường được thực nghiệm ở một số khu vực trước khi áp dụng rộng rãi. Kết quả là Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ và thu hút sự quan tâm của thế giới. Năm 2004, Joshua C. Ramo, nguyên Tổng biên tập báo Time và là giáo sư thỉnh giảng ở Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc), dùng thuật ngữ Beijing Consensus (Đồng thuận Bắc Kinh) để khái quát chiến lược phát triển và chuyển sang kinh tế thị trường theo cách tiệm tiến của Trung Quốc. Thuật ngữ đó dùng để đối lại với cụm từ Đồng thuận Washington. Trung Quốc ngày càng tự tin vào chiến lược phát triển của mình, và các học giả của họ đã chuyển khái niệm Đồng thuận Bắc Kinh thành “Mô hình phát triển Trung Quốc”.
Mô hình này được bàn luận khá sôi nổi, được cổ xúy như là một sức mạnh mềm của Trung Quốc, nhất là trong khoảng năm 2009-2010. Năm 2009, Trung Quốc kỷ niệm 60 năm lập quốc với thể chế mới và 30 năm cải cách mở cửa. Trong lúc kinh tế thế giới bị suy sụp sau cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 2008, Trung Quốc vẫn tiếp tục mạnh mẽ và năm 2010 vượt Nhật trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới cũng làm họ tự tin hơn.
Mô hình phát triển Trung Quốc có đặc tính gì? Nhìn tổng quát, ngoài yếu tố tiến hành tuần tự các chính sách, mô hình này giống với các nước Đông Á (điển hình là Hàn Quốc) trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển và được tổng kết là mô hình “độc tài cho phát triển” (thể chế chính trị độc tài nhưng ưu tiên động viên các nguồn lực cho phát triển) hoặc “chủ nghĩa tư bản nhà nước” (state capitalism) trong ý nghĩa là nhà nước can thiệp mạnh vào thị trường để đẩy mạnh phát triển. Nhưng quá trình và kết quả phát triển của mô hình Trung Quốc cho thấy các đặc tính sau:
Video đang HOT
Thứ nhất, Trung Quốc đã quá nhấn mạnh và thúc đẩy tăng trưởng hầu như bằng mọi giá, gây hậu quả là dân chúng (giới lao động và nông dân) bất mãn, xã hội bị phân tầng gay gắt. Đặc biệt tầng lớp bị hy sinh nhiều trong quá trình trỗi dậy của Trung Quốc là giới lao động di chuyển từ nông thôn và các tỉnh nội lục đến tìm việc ở các tỉnh ven biển, với tiền lương thấp và vị trí xã hội bấp bênh. Chế độ hộ khẩu và sự thiếu vắng chế độ phúc lợi cho người thu nhập thấp gây ra tình trạng bi thảm cho họ. Mặt khác, nhìn toàn cục, tỷ lệ của đầu tư trên GDP thường ở mức cao một cách dị thường (tăng từ 35% năm 1980 đến 50% năm 2012), và ngược lại là tỷ lệ của chi tiêu cá nhân quá thấp (chỉ có 35% năm 2012). Nói khác đi, kinh tế tăng trưởng nhờ đầu tư cao và chậm cải thiện cuộc sống của dân chúng.
Ưu tiên phát triển bằng mọi giá còn đi kèm theo với tình trạng sao nhãng các đối sách về an toàn lao động, thường xuyên phát sinh tai nạn hầm mỏ, tai nạn tại các công xưởng hóa chất gây chết nhiều người.
Một chỉ tiêu đo sự bất bình đẳng thu nhập là hệ số Gini (càng gần zero càng bình đẳng, càng gần số 1 càng bất bình đẳng). Thông thường nếu Gini lớn hơn 0,4 thì xã hội có khả năng bất ổn, đáng báo động, nhưng Gini của Trung Quốc đã lên tới 0,47 vào năm 2012.
Thứ hai, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc thì cả thế giới đều biết. Môi trường sinh thái bị phá hoại, không khí, sông ngòi bị ô nhiễm, nhiều khu vực bị sa mạc hóa đang trở thành vấn nạn ở Trung Quốc.
Thứ ba, đạo đức suy đồi, an ninh xã hội bất ổn, an toàn lương thực không được bảo đảm làm cho cuộc sống của cả giới giàu có cũng bị ảnh hưởng. Do đó, ngày càng nhiều gia đình có khả năng tài chính muốn di cư sang các nước tiên tiến, đặc biệt là Bắc Mỹ.
Do chất lượng phát triển không tốt và do Trung Quốc quá lớn, mô hình phát triển Trung Quốc được phân tích nhiều nhưng hầu như chưa có nước nào muốn tham khảo cho chiến lược phát triển của mình. Dĩ nhiên một số bộ phận của mô hình đó có thể tham khảo được, chẳng hạn phát triển của các doanh nghiệp hương trấn hoặc vai trò của các đặc khu kinh tế trong giai đoạn từ đầu thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990.
Hướng tới Đồng thuận Hà Nội
Do đi sau và đi chậm hơn, hiện nay tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên đầu người của Việt Nam mới 2.100 đô la Mỹ (năm 2015) và thuộc nhóm nước thu nhập trung bình thấp, trong khi Trung Quốc đã đạt 7.800 đô la Mỹ và được xếp vào những nước thu nhập trung bình cao. Trong tương lai, mục tiêu của Trung Quốc là tiếp tục phát triển để trở thành nước thu nhập cao, ngang hàng với các nước tiên tiến hiện nay. Việt Nam thì phải đi sau với cái đích trước mắt là mức thu nhập trung bình cao.
Tuy nhiên, tương lai Việt Nam có nên chạy theo Trung Quốc trên đường phát triển không, có nên phỏng theo mô hình Trung Quốc để nhắm đến mức thu nhập trung bình cao để rồi sau đó lại tiếp tục ở giai đoạn cao hơn không? Câu trả lời ở đây là không. Việt Nam cần có mô hình riêng với chất lượng phát triển tốt hơn, bền vững hơn.
Trong 30 năm qua, nhất là từ cuối thập niên 1990, kinh tế Việt Nam cũng có một số đặc trưng giống Trung Quốc tuy phát triển với tốc độ thấp hơn. Tuy nhiên các mặt tiêu cực như khoảng cách giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm… đã trở thành vấn nạn tuy so với Trung Quốc có thể ít trầm trọng hơn.
Như vậy Việt Nam phải chuyển hướng phát triển, không thể giống Trung Quốc, không thể như chính Việt Nam trong thời gian qua.
Trên thế giới hiện nay Việt Nam xếp thứ 14 về dân số, thứ 50 về GDP và thứ 130 về thu nhập đầu người. Việt Nam hiện nay là nước có thu nhập trung bình thấp. Như vậy trong tương lai, Việt Nam phải phát triển thành nước thu nhập trung bình cao, và trong một tầm nhìn dài hơn, Việt Nam cần hướng đến một nước thu nhập cao, đúng như mục tiêu dân giàu nước mạnh đã được đưa ra từ lâu. Để đạt các mục tiêu đó, Việt Nam phải phát triển với tốc độ tương đối cao, ít nhất là 7%. Phát triển với tốc độ tương đối cao như vậy cũng là nhu cầu để đối phó với nguy cơ chưa giàu đã già. Nghiên cứu về diễn biến của cơ cấu dân số cho thấy giai đoạn dân số vàng của Việt Nam là từ khoảng năm 1970 đến khoảng năm 2025. Sau giai đoạn dân số vàng là bắt đầu thời kỳ lão hóa, Việt Nam sẽ phải đối phó với vấn đề an sinh trong một xã hội mà tỷ lệ người già rất cao.
Nhu cầu tăng trưởng tốc độ cao nhưng phải bảo đảm chất lượng phát triển là vấn đề không dễ thực hiện. Tuy nhiên kinh nghiệm các nước rất phong phú và lý luận về phát triển bao trùm (inclusive), về bền vững, về sự quan trọng của chất lượng thể chế đã cho thấy những hàm ý đáng tham khảo. Vấn đề là quyết tâm và trách nhiệm của lãnh đạo chính trị trong việc cải cách thể chế để các nguồn lực được sử dụng hiệu quả (mà dân chủ, công khai, trách nhiệm giải trình là những yếu tố quan trọng) và không để ai bị bỏ lại đằng sau trong quá trình phát triển. Thể chế cũng phải bảo đảm có sự chuyển dịch xã hội (social mobility) để mọi người có thể dễ dàng chuyển từ giai tầng này sang giai tầng khác bằng nỗ lực và năng lực của mình.
Ngoài vốn tư bản hữu hình, vốn con người và vốn thể chế, gần đây lý luận kinh tế phát triển còn nhấn mạnh vốn xã hội (social capital) và vốn thiên nhiên (nature capital). Vốn xã hội là sự tin cậy giữa người với người, giữa tổ chức với cá nhân và giữa các tổ chức với nhau. Không có sự tin cậy này thì kinh tế thị trường không phát triển lành mạnh. Môi trường được gìn giữ không phải chỉ để tăng chất lượng cuộc sống hiện tại mà còn là vốn thiên nhiên ảnh hưởng đến tốc độ phát triển trong tương lai.
Đồng thuận Hà Nội là mô hình phát triển bao trùm, có sự chuyển dịch xã hội cao, có vốn xã hội và vốn thiên nhiên cùng với vốn con người ngày càng được tích lũy. Chỉ còn độ 5-7 năm nữa Việt Nam sẽ có 100 triệu dân. Với Đồng thuận Hà Nội, Việt Nam sẽ trở thành một nước lớn, giàu mạnh, được thế giới kính nể và xem đó là mô hình phát triển đáng để nhiều nước đi sau tham khảo. Nhân ngày đầu xuân, cùng nghĩ về một tương lai như thế, không biết giấc mơ này có thành hiện thực?
(Theo Trần Văn Thọ/TBKTSG)
GS Hoàng Chí Bảo: Chính phủ kiến tạo là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh
GS Hoàng Chí Bảo (ảnh bên), chuyên gia cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương khóa X, Chủ tịch Hội đồng Khoa học, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực khẳng định, ngay từ những ngày thành lập Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm hết sức tiến bộ và nhân văn về vai trò và trách nhiệm của Chính phủ. Cũng ngay từ thời điểm ấy, Người đã phê phán việc lợi dụng chức quyền biến việc công thành việc tư, dùng người nhà mà gạt đi hiền tài trong bộ máy Nhà nước. GS Hoàng Chí Bảo chia sẻ:
GS Hoàng Chí Bảo
Phải dùng người tài đức, chứ không theo cánh hẩu
Khi nhậm chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định sẽ xây dựng Chính phủ kiến tạo và liêm chính, đó chính là sự kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay trong buổi họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước quốc dân đồng bào Chính phủ sẽ hành động vì dân, vì quyền lợi và cuộc sống của dân, cho nên dựa vào dân, có sự giúp đỡ ủng hộ của dân thì chúng ta sẽ nhất định vượt qua được những khó khăn và thực hiện được mục đích cao cả mà Chính phủ đã đề ra. Bác đã viết tác phẩm có tên: "Sửa đổi lề lối làm việc", thể hiện tư tưởng đổi mới đầu tiên khi Đảng đã nắm quyền, trong đó Người phê phán những căn bệnh như chủ nghĩa cá nhân, không có đạo đức cách mạng trong sáng, thiếu kiến thức nhưng coi thường việc học hành, bệnh địa phương cục bộ, bệnh nói nhiều làm ít.
Muốn xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính cần vận dụng những tư tưởng này của Bác để xây dựng đội ngũ công chức hiện nay. Trong đạo đức Hồ Chí Minh, Người đặc biệt nhấn mạnh bốn đức là cần, kiệm, liêm, chính. Người nói có cần, có kiệm thì mới liêm (liêm khiết, trong sạch, không có gì khuất tất), chính (chính trực, công bằng). Có liêm, có chính thì mới được lòng dân. Vì vậy, có thể nói Chính phủ mà Hồ Chí Minh kiến tạo là một Chính phủ liêm chính, những người trong bộ máy công quyền phải là những người phục vụ cho lợi ích và quyền lợi của nhân dân.
Muốn xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính thì phải vừa xây dựng, tạo cơ hội, tạo môi trường làm ăn, kinh doanh tốt cho người dân, đồng hành cùng doanh nghiệp đồng thời phải quyết liệt chống tham nhũng. Liêm chính là chống bằng được tham nhũng - căn bệnh đe dọa sự tồn vong của chế độ. Chống được tham nhũng thì Đảng mới trong sạch, vững mạnh, nhân dân mới thụ hưởng được lợi ích chính đáng của mình.
Thưa giáo sư, nguy cơ lợi ích nhóm cất nhắc thân hữu, người thân vào nhiều vị trí béo bở trong hệ thống chính quyền đã trở thành một thực tế đáng báo động. Khi xây dựng Chính phủ liêm chính, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dùng người và chống lại lợi ích nhóm như thế nào?
Có thể nói, Bác Hồ lên tiếng chống lại lợi ích nhóm (theo nghĩa tiêu cực) từ rất sớm. Bác nói dùng người là phải người tài, đức, công tâm, chính trực, chứ không theo cánh hẩu (nhóm lợi ích) với nhau, cũng không đưa bà con, họ hàng vào bộ máy. Người đề cao phẩm chất "dĩ công vĩ thượng" (đặt việc công lên trên hết) và phê phán, chỉ trích chuyện lợi dụng chức quyền mà biến việc công thành việc tư, biến "dĩ công vi thượng" thành "dĩ công dinh tư" (biến công thành của riêng mình). Điều này bây giờ chúng ta thấy không ít nhưng ngay từ năm 1945-1946, Bác đã phát hiện ra rồi, phát hiện từ việc lợi dụng xe công. Bác gửi thư cho chính quyền địa phương các cấp, phê phán căn bệnh cục bộ địa phương dẫn đến việc lôi kéo người thân thích họ hàng vào làm việc, lợi dụng chức quyền để vụ lợi cá nhân mà sau này Người nói rõ đó là bệnh giặc nội xâm, chủ nghĩa cá nhân, vị kỉ, vụ lợi.
Gần đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: dùng người tài, chọn người tài cho đất nước chứ không chọn người nhà. Người hiền tài dù ở trong núi thẳm, rừng sâu cũng phải tìm cho được. Những tâm huyết như vậy là rất đáng quý nhưng bây giờ phải chứng minh bằng hành động và đo được hiệu quả biến chuyển tích cực.
Phải biết giải phóng sức dân, bồi dưỡng sức dân, tiết kiệm sức dân
Thủ tướng Chính phủ đang tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, đồng hành với doanh nghiệp như một trong những biểu hiện của Chính phủ kiến tạo. Xin giáo sư cho biết tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với doanh nghiệp, doanh nhân và kinh tế tư nhân?
Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn về kinh tế. Người dùng từ nông gia (nhà nông), thương gia (nhà buôn, kinh doanh sản xuất), Người chủ trương kháng chiến kiến quốc thì phải huy động được toàn bộ sức lực của toàn dân mà trong đó Người rất chú trọng đội ngũ doanh nhân, rất chú trọng vấn đề phát triển kinh tế. Không chỉ kinh tế nhà nước (quốc doanh), Người chú trọng phát triển kinh tế của các tiểu thương, tiểu chủ, các thương gia miễn là họ không làm chỉ cho mình mà họ đóng góp vào ích lợi của quốc dân. Dân giàu thì nước mạnh, xóa được đói, giảm được nghèo tiến tới khá giả, từ khá giả lên giàu có, đã giàu có thì nên giàu có nữa, miễn là sử dụng sức lao động chính đáng của mình. Thước đo là ích quốc lợi nhà, dân giàu nước mạnh, tận dụng tiềm lực tối đa của dân chúng trong xã hội. Người chủ trương phát triển các thành phần kinh tế miễn là có hướng dẫn đúng về luật pháp, tạo môi trường hoạt động hợp pháp, khuyến khích động viên, có động lực để cho họ phát triển. Bác rất chú trọng lợi ích của nước nhà, của nhân dân, lợi ích của bản thân người sản xuất kinh doanh. Lợi ích là động lực.
Trong xây dựng và phát triển kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư tưởng như thế nào về quan hệ giữa Chính phủ với người dân, giữa kinh tế với văn hóa?
Để phù hợp với trình độ của đa số người dân lúc bấy giờ, Bác chủ trương Chính phủ cấp vốn, cấp tiền, nhân dân thì có công có sức trong chăn nuôi, trồng trọt. Chính phủ và nhân dân hợp tác với nhau. Đến lúc thu hoạch thì chia đôi, nhân dân có lợi ích. Chính phủ có chính sách để động viên nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến nuôi quân đánh giặc. Tất cả cũng vì lợi ích quốc dân đồng bào. Tư duy chú trọng lợi ích về phát triển kinh tế như thế ở Hồ Chí Minh xuất hiện rất sớm. Người luôn nhấn mạnh vấn đề quản lý phải nền nếp, khoa học, không được thất thoát, không được làm cho lợi ích của dân bị tổn hại. Người nói kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa là bốn mặt quan trọng ngang nhau, không xem nhẹ mặt nào. Ngay văn hóa cũng thế, văn hóa không ở bên ngoài mà thấm vào trong kinh tế và chính trị. Phải dùng sức mạnh văn hóa để chống thói phù hoa xa xỉ, dùng sức mạnh dân chủ để chống quan liêu tham nhũng. Đến nay, những điều này vẫn còn nguyên giá trị.
Bác nhấn mạnh: những người đi buôn phải rèn luyện tính không buôn gian bán lận và phải đóng thuế cho Nhà nước. Công dân đóng thuế cho Nhà nước, Nhà nước sử dụng tiền thuế của dân để lo cho công việc của dân. Đóng thuế là một nghĩa vụ, đồng thời là thái độ yêu nước. Không buôn gian bán lận là đạo đức người kinh doanh, không lãng phí thời gian tiền của là đạo đức của cán bộ, công chức, người sản xuất. Những điều đó phải đi vào cuộc sống bởi nó rất thiết thực. Bác không nói những lý thuyết xa xôi dài dòng mà đề cập tới những gì cuộc sống đòi hỏi, và chính từ nguyện vọng của nhân dân. Mong muốn của nhân dân là được yên ổn làm ăn, để phát triển. Bác khẳng định: Chính phủ phải làm cho dân có ăn, dân có mặc, có chỗ ở, học hành, tự do chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do dân chủ mà họ xứng đáng được hưởng. Tôi coi đó là một thông điệp thiết thực, cụ thể, luôn luôn xuất phát từ dân, kết quả cũng của dân.
Về mặt lý luận, Bác khái quát: phải giải phóng được sức dân, khơi dậy mọi tiềm năng để phát triển sức dân, biết bồi dưỡng sức dân, tiết kiệm sức dân. Mỗi đồng tiền đều là mồ hôi nước mắt của dân. Công thức này là kim chỉ nam của Chính phủ. 24 năm là Chủ tịch nước - nguyên thủ quốc gia, Người luôn thực hành mẫu mực nhất cần kiệm liêm chính, thực hành mẫu mực nhất việc gần dân và thực hành nhất quán lẽ sống cao thượng nhất, đó là làm đầy tớ công bộc của dân, đến mức quên mình. Đây là bài học lớn đối với cán bộ đảng viên. Hiện nay, chúng ta có 4,5 triệu đảng viên, hàng triệu công chức. Nếu mỗi ngày, mỗi người làm được việc tốt như thế thì xã hội sẽ lành mạnh, niềm tin của dân không bao giờ mất. Nghiên cứu kỹ mối quan hệ giữa Đảng và dân hiện nay, tôi mới thấm thía một thực tế là dân không bao giờ xa Đảng, chỉ có cán bộ, đảng viên xa dân. Dân không hoài nghi đường lối chính sách của Nhà nước chỉ có cán bộ, đảng viên làm sai để đánh mất niềm tin của dân.
Xin cảm ơn giáo sư!
THIÊN THANH (Theo Nhan Dan)
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Tôi không yên lòng về phát triển bền vững ở Việt Nam Tôi đã tham gia nhiều công việc quản lý, nhưng hiện tôi không yên lòng với phát triển bền vững tại Việt Nam.Điều tôi không yên lòng là bởi phát triển bền vững là làm sao đáp ứng yêu cầu phát ngày hôm nay nhưng không ảnh hưởng đến ngày mai, chúng tôi không yên lòng luôn hỏi liệu việc làm hôm nay...