Tục treo con lên cây: Lời người sống sót
Trong những ngày lang thang tìm hiểu về tục bỏ con của người Dao tiền ở Xuân Sơn – Tân Sơn – Phú Thọ, chúng tôi đã được nghe những câu chuyện bỏ con rùng rợn và tàn nhẫn nhất. Những đứa trẻ bị treo trên ngọn cây phần nhiều đã mủn ra thành nắm đất, đã ở lại vĩnh viễn với rừng già và “siêu sinh” ở một kiếp khác.
Thế nhưng, cũng có những đứa trẻ đã sống sót kỳ diệu rồi trở về từ ngọn cây. Chị Triệu Thị Thương (SN 1986) là một dấu chấm cảm kỳ lạ bước ra từ câu chuyện kinh hoàng ở vùng núi Tân Sơn heo hút. Sự sống sót và cuộc đời của chị Thương vừa đẹp lạ lùng, vừa chua xót đến nghẹt thở.
Nhét nắm lá rừng vào miệng cho khỏi khóc rồi treo lên cây
Ở bản Cỏi, xã Xuân Sơn có bà Bàn Thị Đoàn (SN 1948) là người đàn bà giàu lòng yêu thương, lành hiền chất phác như một bà tiên làm người vậy. Từ nhỏ đã sống trong nghèo khó, túng thiếu. Lớn lên, đi lấy chồng, gia cảnh nhà chồng lại càng túng quẫn hơn vì chồng nay ốm mai đau. Bà Đoàn đã gượng sức mọn, lo việc nhà thay chồng, chăm bẵm ba đứa con nhỏ.
Thế rồi một ngày, người em đi rừng chặt nứa về hốt hoảng thông báo, trên rừng có đứa trẻ bị treo trên ngọn cây vẫn còn sống, nó cất tiếng khóc oe oe khiến cậu em tưởng mình bị ma rừng trêu ghẹo, ôm cả bó nứa còn nguyên lá chạy thục mạng về nhà. Trên đường về định thần lại mới nghĩ là người ta treo bỏ con trên rừng. Bà Đoàn nghĩ bụng, chắc nhà Ph đêm qua trở dạ sinh một đứa con gái, nó không nuôi lại đem bỏ trên rừng mất rồi, nhà mình đã có ba đứa con rồi, nhưng mới có một đứa con gái, hay mình đi lấy nó về nuôi kẻo nó chết thì khổ.
Người ta bỏ đứa bé trên ngọn cây ấy đã nửa ngày rồi. Nó ra đời lúc 3h sáng, bố mẹ nó kiên quyết không nuôi, họ đem bỏ vào giọ, đặt xuống xó nhà. Có một bà tên là Oong, đã 80 tuổi rồi, thấy thương xót, cũng muốn xin làm con nuôi nhưng nhà Ph không cho. Đến 7h sáng, họ đem con bé bỏ ra rừng. Đúng 12h trưa ngày hôm ấy, bà Đoàn mới biết chuyện, ra rừng lấy nó về.
Không ai tin được, cô gái xinh đẹp này lại đến từ ngọn cây.
Trước khi đi, bà chạy sang nhà Ph nói chuyện thủ thỉ: “Anh ơi, bây giờ em chẳng biết anh để nó ở đâu, anh đưa em đi với, để em lấy nó về, xin về nuôi”. Ông Ph bảo bà Đoàn là đứa trẻ không còn gì nữa đâu, con ong, con kiến đốt thì nó làm gì còn sống nữa, nó đã thành cái hoa rừng rồi. Bà mới nói rằng: “Không, lúc nãy em cậu nó đi rừng về, nó nói rằng cháu hãy còn sống, còn khóc đấy, nó bảo em đi nhặt lấy, nhưng em lại không biết anh để ở đâu cả”.
Thế rồi chính người bố đẻ của đứa bé đã đưa bà Đoàn đi lên rừng lấy nó về. Thái độ thờ ơ của ông Ph khiến bà Đoàn khó hiểu quá. Trước khi đi, ông Ph còn đủng đỉnh hút thuốc, uống nước xong rồi mới đứng lên, cầm theo con dao đi vào rừng rồi ông ta đứng ở xa, chĩa con dao lên ngọn cây rồi bảo: “Đấy, anh treo ở đấy, bây giờ anh nuôi nhiều con quá, con nào cũng lớn rồi, mà phải đi lên rừng đào củ mài củ nâu về nuôi khổ hết cỡ rồi, khổ đến chết rồi, bây giờ anh cũng không nuôi được nữa, cô mang nó về mà nuôi”.
Hôm ấy là ngày 30 Tết năm 1985. Trời lạnh như cắt da cắt thịt, cái rét của rừng già thâm u càng trở nên khủng khiếp hơn bao giờ hết. Trong cái rét ghê người ấy, không ai nghĩ rằng đứa bé mà bà Đoàn vít ngọn cây mang về lại có thể sống sót sau nửa ngày trời không một miếng vải đắp thân, nằm tít trên ngọn cây cao giữa rừng như thế.
Bà Đoàn rớt nước mắt kể lại: “Lúc tôi nhặt Thương, nó ở trong cái rọ bằng nửa cái bàn này, người không có một chút quần áo nào cả, vải rách cũng không có, chỉ có 2 cái chổi lúa cùn kê ở hai đầu thôi. Cả cái dây rốn cũng vẫn còn, máu me vẫn còn. Về tôi phải tõe cái nứa ra cắt rốn cho nó. Lúc ở trong rừng, tôi phải cởi cái áo ngoài ra, trùm vào rồi ôm lấy nó. Họ bỏ nó lạnh như thế cho nó chết đi thôi. Bố nó còn đút cả cái nắm lá rừng vào mồm nó để nó không thở, không khóc được. Chả biết nó ngoáy thế nào mà nắm lá ấy lại rơi ra ngoài được. Lúc mà tôi đón nó là cái nắm lá đã gần “chín” rồi. Cháu nó cũng muốn sống, nó ngoáy được ra đấy”.
Lúc mới nhặt đứa trẻ về, bà Đoàn vẫn đem nó đến cho mẹ đẻ của nó để bú sữa, nhưng nửa tháng sau, khi sữa mẹ cạn, cô bé được mẹ Đoàn nhá cơm cho ăn hằng ngày. “Ngày xưa không có máy mà nghiền bột đâu, toàn nhá cơm thôi. Có cái ghế cao như thế này thì để đầu giường đấy, với một siêu nước và một nắm cơm để đây. Cứ nắm lại bằng lá chuối đấy. Cứ khóc là lấy ra nhá cơm cho nó ăn, rồi cho nó uống nước. Toàn ăn cơm nhá thôi đấy. Không có sữa gì cả, ăn như thế mà nó vẫn lớn đấy…” – bà Đoàn kể.
Thương lớn rồi nhưng vẫn được mẹ cưng chiều nhất. Bà Đoàn thường ở nhà trông hai đứa cháu ngoại để vợ chồng Thương có thời gian đi làm.
Cô bé lớn lên trong sự chăm chút nghèo khổ, thiếu thốn, trong tình yêu thương của bố mẹ và các anh chị. Anh Triệu Văn Kế là người anh trai dành nhiều thời gian chăm bẵm cho cô em gái nhặt của mình hơn cả. Anh Kế thương em lắm, anh đặt tên cho em gái là Triệu Thị Thương. Từ đấy về sau này, ai gọi tên Thương cũng hiểu rằng, tình thương mà gia đình bà Đoàn dành cho Thương là vô bờ bến.
Video đang HOT
Chua xót “cái hoa” rụng giữa rừng già Xuân Sơn
Anh Kế nhớ lại: “Khi vít ngọn cây, đem Thương xuống, mọi người chạy lại bảo xem con bé còn sống hay đã chết rồi. Mẹ tôi lại xem, thấy em nó còn thoi thóp thở, nó thở yếu lắm rồi. Lúc lấy nó về nó lạnh lắm, lạnh như hòn đá rồi, lâu lâu mới thấy nó thở, cũng không ai dám bảo thế nào. Cuối cùng mẹ tôi vẫn mang Thương về, đốt lửa từ lúc mang về cho đến nửa đêm mà con bé chưa hết lạnh… Hơ lửa mãi, cơ thể nó cũng ấm dần lên”.
Kinh hoàng thay, cũng trong cái ngày bé Thương được cứu sống từ ngọn cây, có một đứa trẻ khác đã không được may mắn như Thương. Đứa bé ấy cũng bị ruồng bỏ, bị treo lên ngọn cây nhưng với một phương cách tàn nhẫn nhất. Bố mẹ của đứa trẻ vì một lý do nào đó đã tự tay ép chết con mình. Đứa bé ấy sinh vào buổi sáng, người ta không chịu nuôi nó, cho nó vào cái rọ. Nhưng cái rọ ấy quá nhỏ, không thể nhét vừa đứa bé. Họ cố sức ấn nó vào trong ấy, ấn mạnh quá, đứa bé đã chết trước khi người ta tìm ra nó.
Bà Đoàn kể: “Đứa bé ấy sinh sau Thương nhà tôi một chút, nhưng lúc treo nó, người ta đã cố tình ấn nó mạnh quá, khiến nó chết mất. Lúc người ta tìm thấy nó, người nó đã mềm oặt ra, bị gãy hết xương ở giữa người thế này…”.
Có thể, cái đói cái nghèo đã làm cho con người bỗng chốc quên đi mất cả tình thân ruột thịt. Vì đông con, thiếu ăn, vì sự mông muội một thời mà họ phải đem con bỏ vào rừng, để rồi cái hủ tục treo con cứ “bám rễ” một thời gian dài ở nơi núi rừng này. Họ vứt bỏ “máu mủ ruột rà” của mình, nhẫn tâm treo đứa con mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày của mình lên ngọn cây mà không một mảy may ân hận, thương xót. Sau này, bố mẹ của Thương thi thoảng vẫn hỏi thăm bé Thương qua quít, nhưng dường như sự quan tâm ấy làm bé Thương buồn rầu hơn.
Gia đình Thương nghèo khó nhưng đầm ấm, hạnh phúc.
Bản Cỏi nhỏ nên nhà bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi của Thương ở rất gần nhau. Có thể không chịu đựng nổi áp lực và buồn bã khi hằng ngày phải đối mặt với đứa con gái mà chính mình đã ruồng bỏ, bố mẹ đẻ của Thương đã chuyển nhà sang Sơn La. Thế mà, đến lúc lớn rồi, hiểu chuyện rồi, ngày Tết, Thương vẫn lặn lội đi tìm gặp mẹ và các chị em vì nhớ tình máu mủ. Khi gặp lại mẹ đẻ lần đó, Thương, mẹ đẻ của Thương và các chị em ai cũng khóc.
Thương nói trong nước mắt như trách móc, oán hận: “Về gặp mặt nhau như thế thì khóc để làm gì nữa. Lúc con còn nhỏ thì bố mẹ vứt con đi sao không khóc. Giờ thì khóc làm cái gì nữa…”. Thương đa sầu đa cảm lắm. Lúc vẩn vơ một mình, Thương hay nghĩ ngợi về cuộc đời mình. Thương tâm sự trong nước mắt: “Em buồn lắm chứ. Em nghĩ đi nghĩ lại thấy mình khổ quá, cuộc đời mình thiệt thòi quá. Các anh chị em ruột đều được sống, con người ai cũng muốn sống mà tại sao bố mẹ lại lấy em đi treo ở trong rừng như thế. Giờ nhà nghèo, em không được đi học, không biết chữ, không biết đọc. Em thấy mình khổ quá…”.
Cuộc sống của cô gái đến từ ngọn cây chưa bao giờ vợi bớt khó khăn. Thương lớn lên, kết hôn với anh thanh niên cùng bản Phùng Văn Thành. Họ sinh được hai đứa con một trai một gái, nhưng cuộc sống của họ thì bộn bề, vất vả vô cùng. Nhà không có một tấc ruộng, vợ chồng Thương phải đi làm thuê làm mướn kiếm tiền nuôi con. Lúc rỗi việc, không có người thuê thì vào rừng kiếm măng, hái rau mà bán. Đôi vợ chồng trẻ vì thương nhau nên bấu víu vào nhau mà sống. Họ luôn ao ước có thể nuôi hai đứa con học hành tử tế, để không phải sống cuộc đời cơ cực như bố mẹ chúng.
Chân dung người đàn bà tốt bụng của bản Cỏi.
Hủ tục treo con của người Dao tiền ở Xuân Sơn đã bị “bài trừ” khỏi cuộc sống hơn chục năm nay. Những bản làng xa xôi này đã không còn những đứa trẻ bị chính bố mẹ đẻ của mình đem vào rừng sâu, treo lên ngọn cây, mặc cho mưa bão rừng già quăng quật. Có những đứa trẻ may mắn được cứu sống bởi những vòng tay nhân ái như Thương, như Phúc giờ cũng đã trưởng thành trong sự đùm bọc, yêu thương của cộng đồng. Cho dù vẫn có những hệ lụy không nhỏ làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần và tương lai của những đứa trẻ ấy, nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng, họ đã là những “đứa trẻ đến từ ngọn cây” cuối cùng ở vùng núi Xuân Sơn xa xôi này.
Ông Bàn Xuân Lâm – Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn – nói bằng giọng tự hào: “Giờ người Dao bỏ cái tục đó rồi, không ai treo con nữa đâu. Vì bây giờ có kế hoạch hóa gia đình rồi. Nhà nào sinh con là Ban kế hoạch hóa gia đình nắm được hết. Nhà nào sinh con thứ ba cũng có danh sách hết rồi. Nhân dân cũng có ý thức lắm, đời sống cũng bớt khó khăn hơn trước …”.
Theo 24h
Ám ảnh tục bỏ con bằng cách treo lên cây
Khủng khiếp thay, khi đẻ đứa con ra mà không muốn nuôi, họ đem vào rừng già sâu thẳm rồi treo lên ngọn cây, phó mặc sinh linh bé bỏng ấy cho thú dữ, cho rừng thiêng nước độc.
Xã Xuân Sơn nằm sâu trong rừng quốc gia Xuân Sơn - huyện Tân Sơn - tỉnh Phú Thọ với hơn 50% người Dao sinh sống. Những cánh rừng nguyên sinh thâm u bao bọc khiến bản làng trở nên heo hút và huyền bí với người khách lạ. Những ngày lang thang ở bản Dù, bản Cỏi, chúng tôi được nghe những câu chuyện rùng rợn về tục bỏ con của người Dao - một hủ tục đã từng "ăn sâu bám rễ" vào cuộc sống của người dân nơi này.
Khủng khiếp thay, khi đẻ đứa con ra mà không muốn nuôi, họ đem vào rừng già sâu thẳm rồi treo lên ngọn cây, phó mặc sinh linh bé bỏng ấy cho thú dữ, cho rừng thiêng nước độc và coi như đã rũ bỏ được đứa con "sinh nhầm thời", đã vứt đi thành công "máu mủ ruột già" của mình.
Những đứa trẻ ở bản Dù bây giờ được bao bọc bởi tình thương yêu của gia đình. Hình ảnh này trái ngược với cái giọ treo những đứa trẻ lên ngọn cây của nhiều năm về trước.
Sự "trở về" của đứa bé
Chuyện người ta rũ bỏ ruột thịt của mình bằng cách treo con lên cây vừa ám ảnh, vừa khó tin. Người tôi tìm gặp đầu tiên để xác minh thực hư của câu chuyện ở xã miền núi xa xôi này chính là ông Bàn Xuân Lâm - Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn. Không hề lạ lẫm và bất ngờ, ông Lâm rót nước mời khách, trầm ngâm một lúc rồi bắt đầu kể rành rọt, chi tiết những chuyện xác thực rằng hủ tục treo con đã từng tồn tại rất lâu ở các bản làng người Dao nơi đây. Ông kể bằng giọng chân chất của người Dao bản xứ: "Ngày xưa, treo con lên cây thì người Dao mình làm suốt ấy mà. Họ bỏ con với lý do rất đơn giản. Sinh con ra không nuôi được thì đem vào rừng bỏ đi thôi...".
Ở bản Dù, xã Xuân Sơn ngày trước có nhà ông Kh đã sinh được một cô con gái và hai cậu con trai. Vợ ông Kh lại mang thai lần thứ tư rồi sinh ra một đứa trẻ bị dị tật ở chân. Họ "quyết" không để đứa bé thành người. Ông Kh đem bỏ đứa bé bất hạnh ấy vào rọ tre, lầm lũi đi vào rừng sâu rồi treo nó lên ngọn cây. Sau ba ngày mưa gió của rừng thiêng nước độc, lạ lùng thay, tiếng khóc của đứa trẻ vẫn cất lên, vang cả một góc rừng. Người đi rừng truyền tai nhau rằng đứa trẻ vẫn còn sống.
Cũng ở bản Dù, có vợ chồng ông Vấn và bà Tiệp nghe tin đó đã lóp ngóp chạy vào rừng, vít ngọn cây, gạt bỏ kiến vàng bu khắp người đứa bé, rồi bế nó về tận nhà, rồi đưa nó sang máng nước để tắm rửa cho nó. Khốn khổ thay, thằng bé vừa lọt lòng đã bị đem treo lên cây, màng máu không được lau rửa đã bốc mùi hôi thối sau ba ngày nắng gió trong rừng thẳm, lại bị kiến vàng cắn khắp người.
Không ai tin rằng thằng bé có thể sống. Họ sợ nó chết trong tay vợ chồng bà Tiệp thì suốt đời bà phải tội, họ khuyên ông Vấn, bà Tiệp mang trả nó về rừng già, nơi cha sinh mẹ đẻ của nó đã "an bài" cho nó. Bà đành cắn rơm cắn cỏ nghe lời. Kỳ lạ thay, bà Tiệp và nhóm người vừa quay lưng đi, thằng bé bật khóc oa oa rồi biết nín khóc khi có người tới gần. Tiếng khóc vang rừng như lời kêu cứu. Thằng bé được Thần Rừng che chở rồi truyền cho một niềm khát sống mãnh liệt. Họ mừng mừng tủi tủi đón cậu bé về bản rồi gọi tên cậu là Nhặt để ghi nhớ sự việc ấy. Sau này, gia đình bà Tiệp đã đặt cho Nhặt một cái tên chính thức là Đặng Văn Phúc - nghĩa là cậu bé có Phúc trời cho.
Bà Tiệp đã cưu mang và nuôi nấng Phúc như chính đứa con mình dứt ruột đẻ ra
Điều kinh hoàng và ít ai tưởng tượng được rằng khi nhặt Phúc ở rừng về, họ phát hiện trên đầu cậu bé có một vết thương bằng ngón tay. Người ta đồn đoán rằng, đó là vết thương mà những người cố tình bỏ Phúc đã để lại, nó giống với vết thương tạo bởi chiếc que cời bếp của người Dao. Họ không dám khẳng định điều gì, nhưng ai cũng lắc đầu sợ hãi khi nghĩ đến chuyện "hổ cái còn không ăn thịt con", nữa là...
Sau này, phải mất ba tháng trời dịt thuốc lá rừng, vết thương trên đầu Phúc mới lành hẳn.
Khi ông Vấn, bà Tiệp lên rừng nhặt Phúc về là khoảng 19 giờ ngày 22 tháng 5 năm 1990. Bấy giờ, gia đình nào ở bản Dù cũng khó khăn và túng quẫn, nuôi nấng một đứa trẻ không phải là chuyện đơn giản. Thế nhưng bằng tình yêu thương và nâng niu một sinh linh bé bỏng, gia đình bà Tiệp đã bất chấp khó khăn mà nuôi lớn cậu bé đến từ chiếc rọ tre treo lúc lẳng trên búi giang rậm ở trong rừng sâu kia. Nhiều đêm khát sữa, cậu bé Nhặt khóc ngằn ngặt đến tím tái hình hài. Ông bà lại cầm bát đi gõ cửa những nhà có trẻ nhỏ xin sữa về cho cậu ăn.
Thế rồi, Phúc càng lớn càng ngoan ngoãn, ai hỏi chuyện cậu cũng rành rọt trả lời: "Cháu là con bố Vấn, mẹ Tiệp". Ngặt một nỗi, vết dị tật ở chân từ thuở lọt lòng khiến cậu đi lại vô cùng khó khăn. Thêm một lần chắt bóp, bà Tiệp đưa Phúc đến khoa Chấn thương chỉnh hình của bệnh viện Sơn Tây (Hà Tây cũ). Ở đây, các bác sĩ đã tạo hình lại bàn chân bé nhỏ của Phúc. Từ đó, Phúc được vô tư chạy nhảy nô đùa trên đôi chân gần như lành lặn giống bao đứa trẻ khác. Kể về sự việc này, ông Bàn Xuân Lâm nhớ lại: "Chính tôi đã cùng gia đình bà Tiệp đưa Phúc đi bệnh viện để chỉnh hình bàn chân bị tật. Thấy cậu ấy bây giờ khỏe khoắn, chạy nhảy như... máy bay, tôi mừng lắm".
Năm nay Phúc đã ngoài 20 tuổi, đã học hành đàng hoàng, tốt nghiệp xong và trở về làm cán bộ thú y của xã nhà. Khó ai tin được rằng chàng trai Phó trưởng ban Khuyến nông của xã Xuân Sơn bây giờ lại chính là cậu bé Nhặt đến từ rừng già thuở trước.
Cậu bé Phúc đã sống sót kỳ diệu và trở về từ rừng già sâu thẳm. Trong ảnh là Phúc khi vừa phẫu thuật tạo hình bàn chân.
Ở bản này, ai cũng biết câu chuyện của Phúc, nhưng ít người còn kể lại câu chuyện ấy nữa, bởi Phúc đã trở thành người lớn, đã hiểu hơn về số phận chìm nổi của mình. Phúc không than vãn, oán trách cha mẹ đẻ của mình, cũng không muốn nhắc lại câu chuyện bị ruồng rẫy hết sức đau buồn của cuộc đời mình nữa. Bây giờ, Phúc muốn một lòng chăm sóc phụng dưỡng gia đình đã "tái sinh" ra mình và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp cho tương lai. Và có lẽ, Phúc là đứa trẻ cuối cùng được cứu sống từ ngọn cây trong rừng thẳm, đứa trẻ bước ra từ hủ tục treo con rất đỗi kinh hoàng của người Dao ở xã Xuân Sơn này.
Câu chuyện về hủ tục treo con được xác thực bằng lời kể của ông Lâm, lại được thêm thắt bằng đôi ba câu của những người dân bản. Hầu như, ở Xuân Sơn, ai cũng kể được những câu chuyện đáng sợ về hủ tục bỏ con kinh hoàng của người Dao nơi này: "Ngày xưa thì người ta treo con nhiều lắm mà. Đến những năm 1980 thì ít dần. Đến năm 1990 thì chúng tôi biết trường hợp của Phúc. Một số đứa trẻ sinh ra đã bị dị tật thì họ cũng bỏ đi. Nhà họ nghèo quá, đông con quá, không nuôi được thì họ bỏ đi, không ai nuôi thì họ cho vào cái rọ, cái bu rồi treo lên cây".
"Treo lên cây thì là cái hoa rụng thôi, không phải làm đám ma"
Những đứa trẻ may mắn được cứu sống như Phúc không nhiều. Hầu hết, những đứa trẻ bị treo trên ngọn cây đều không chịu nổi sự khắc nghiệt và nguy hiểm luôn rình rập của rừng già. Có những đứa trẻ được dân bản phát hiện đưa về cứu chữa nhưng cũng không sống được. Những sinh linh bé bỏng ấy đã phải chịu cái chết vô tội và dã man nhất bởi cái đói, cái nghèo, bởi sự thiếu hiểu biết và mông muội của chính những người sinh ra mình.
Ông Đặng Văn Hếnh kể lại nỗi kinh hoàng từ hủ tục treo con của người Dao
Để lý giải nguyên nhân của tục bỏ con đáng sợ này, tôi đi tìm các già làng, trưởng bản. Ông Đặng Văn Hếnh (75 tuổi) làm già làng đã nhiều năm nay. Khi nghe tôi hỏi về tục treo con của người Dao, ông Hếnh lắc đầu thở dài: "Có nhiều cháu đã thoát khỏi cái hủ tục ghê gớm ấy. Nhưng chuyện treo con lên cây và rất nhiều đứa trẻ đã chết là có thật...".
Thế rồi, ông Hếnh ngồi ngẫm nghĩ như để nhớ lại chuyện của thời trước. Ông liệt kê cho tôi một danh sách dài những cái tên, như để chứng thực cho sự tàn khốc của hủ tục treo con của người Dao: "Ngày xưa họ sinh đẻ bừa bãi, không có kế hoạch, đời sống lại quá khó khăn nên người ta hay treo con. Hiện nay, vẫn còn một vài người, ngày trước bị treo lên cây cách một ngày rồi mà vẫn còn sống đến giờ. Chết thì cũng thấy nhiều. Ở xóm dưới, bà Mìn có treo một con... Ngay xóm này cũng có vài người treo bỏ. Treo thế mà không ai nuôi thì phải chết thôi. Còn có nhà nào họ hiếm con, họ thấy còn khóc thì họ đem về nuôi. Ngay tôi biết đây là nhà ông Chườm treo một con, ông Cầu lấy về nuôi. Nhà ông Lèng treo một con, nhà ông Dầu nuôi, nhà ông Thái treo một con, nhà ông Điềm nuôi. Ông Quân nuôi một con nhặt trên rừng về...".
Thuở trước, người Dao nơi đây quan niệm một cách mê tín rằng: Những người đã chôn xuống đất, dù là người lớn hay trẻ nhỏ đều đã trở thành ma, gia đình đó phải làm đám ma cho người xấu số ấy. Làm đám ma thì vô cùng "tốn kém" với ba con lợn, ba con gà, xôi, rượu... Như thế, khi không muốn nuôi đứa trẻ nữa, họ treo lên cây để không phải làm đám ma cho linh hồn em bé ấy nữa, họ coi những đứa trẻ là cái hoa, cái quả của cây rừng, khi không nuôi nấng được thì đem trả về với rừng già thâm u.
Ông Đặng Văn Liềm (SN 1954) - già làng của xóm Dù kể: "Ngày xưa tôi cũng nghe các cụ truyền lại đấy là trẻ con mới sinh ra khoảng 3 ngày trở lại, nếu không nuôi được thì phải treo lên. Treo thì khỏi phải làm đám ma. Treo thì nó không thành ma. Mới sinh ra, đồng bào tôi gọi là cái hoa cái quả thôi, chứ không phải là người. Treo lên cây thì chỉ là cái hoa nó rụng thôi. Chôn xuống đất thì phải làm đám, phải cúng mo rồi đưa nó về rừng mới được. Nếu không làm đám thì làm ăn làm mướn nó không thành đạt, nó lôi thôi lắm. Nghe các cụ già truyền lại như thế".
Ông Liềm lý giải thêm: Ba ngày đổ lại là phải treo, bốn ngày trở đi là phải "khai sinh" rồi, đã làm lễ cúng mời tổ tiên về để "nhập hộ khẩu" cho đứa trẻ rồi. Khi ấy, người ta không thể treo đứa trẻ ấy lên ngọn cây nữa. Ông Liềm còn kể một câu chuyện đầy màu sắc mê tín rằng: "Có nhà anh Thành vì thiếu thốn quá mà đứa trẻ sinh ra bị chết, anh Thành đem đặt đứa trẻ lên hòn đá. Nhưng rồi vài ba năm sau gia đình họ cứ thấy người ốm yếu quá, họ đi xem bói thì thầy bói bảo tại đứa con ấy, thế là nhà anh Thành vẫn phải làm đám ma cho đứa trẻ hết sức tốn kém. Lúc ấy, đứa trẻ đã không còn xác, họ lấy áo gọi hồn về mà làm đám cho nó.
"Những đứa trẻ còn sống mà bị treo thì cũng nhiều lắm. Họ nhặt cái sọt rách, cái bồ rách, cho rơm rạ vào rồi treo đứa trẻ lên. Cũng không được cho quần áo vào đâu. Treo mà không có ai nhặt là đứa trẻ chắc chắn sẽ chết. Tục lệ nó như thế rồi. Đáng sợ lắm..." - Ông Liềm nói.
Theo 24h
Những chuyện kỳ lạ nơi cuối trời Tây Bắc Có người gọi là bùa ngải, có người bảo là do dân trí thấp, dân tộc Mảng ở Nậm Tần Xá, bản biên giới của xã Pa Tần (huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu) có những chuyện mà nếu không trực tiếp chứng kiến sẽ khó lòng tin nổi. Tục nhận con nuôi kỳ lạ Nậm Tần Xá là bản người Mảng xa...