Tư lệnh cảnh sát cơ động không được ra lệnh nổ súng
Chỉ giao Bộ trưởng, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an được quyền ra lệnh nổ súng. Tư lệnh cảnh sát cơ động, giám đôc công an tỉnh không có quyền hạn này… Nội dung này được nhấn mạnh khi UB Thường vụ Quốc hội bàn về Pháp lệnh Cảnh sát cơ động ngày 12/8.
Tờ trình của Bộ Công an nêu vấn đề, Cảnh sát cơ động (CSCĐ) là hoạt động tác chiến đặc thù, có nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ an ninh quốc gia, phối hợp với các lực lượng khác trấn áp các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm có tổ chức… với tính cơ động cao.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, các biện pháp vũ trang của CSCĐ thường tác động trực tiếp đến một số quyền cơ bản của công dân, nhưng chưa được quy định trong các văn bản có tính pháp lý cao.
Do vậy, Pháp lệnh CSCĐ đang là công cụ cần thiết tạo cơ sở pháp lý cho lực lượng này hoạt động trong tình hình mới.
Phiên họp thứ 20 của UB Thường vụ Quốc hội khai mạc ngày 12/8.
Cơ quan soạn thảo đề xuất quy định cụ thể các nhóm nhiệm vụ của CSCĐ như cơ động chiến đấu chống các hoạt động phá hoại an ninh, bạo loạn, khủng bố, bắt cóc con tin; trấn áp kịp thời các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm có vũ trang; tham gia hỗ trợ các hoạt động tư pháp; xâm nhập nơi ở của cá nhân, trụ sở cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam để trấn áp hành vi khủng bố theo quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế…
Tuy nhiên, có ý kiến cũng đề nghị cần xác định rõ hơn, nhiệm vụ nào giao cho CSCĐ thực hiện, nhiệm vụ nào thì do các lực lượng khác chủ trì, còn CSCĐ chỉ tham gia phối hợp, từ đó xác định cơ chế để phối hợp giữa các lực lượng.
Thẩm tra về nội dung này, UB Quốc phòng và an ninh của Quốc hội đặt vấn đề, cần quy định rõ hơn về quyền xâm nhập nơi ở của cá nhân, trụ sở cơ quan, tổ chức trong nước, nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam để trấn áp các hành vi khủng bố” của cảnh sát cơ động.
Báo cáo thẩm tra cũng nêu đề nghị, đối với việc nổ súng, ngoài trường hợp được quy định tại Pháp lệnh Quản lý, sử dụng, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, còn lại chỉ giao Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Thứ trưởng thường trực Bộ Công an được quyền ra lệnh nổ súng, còn Tư lệnh cảnh sát cơ động, giám đốc công an tỉnh không có quyền hạn này.
Riêng về quy định cảnh sát cơ động được trang bị, quản lý, sử dụng máy bay, tàu thủy, một số ý kiến tại cơ quan thẩm tra dự án luật cho rằng cần cân nhắc vì đòi hỏi đầu tư ngân sách quá lớn. Bên cạnh đó, việc quản lý, đào tạo, huấn luyện sử dụng phức tạp và phải rất chặt chẽ. Trong khi hiện nay Bộ Quốc phòng đã được đầu tư cơ bản, có thể đáp ứng yêu cầu của Bộ Công An khi cần sử dụng và sự phối hợp giữa hai bộ vẫn đang được thực hiện tốt.
Về kế hoạch thông qua Pháp lệnh vẫn còn có những quan điểm khác nhau. Dự kiến Pháp lệnh được trình UB Thường vụ Quốc hội thông qua tại phiên họp tháng 12/2013- trước khi Quốc hội thông qua Luật Công an nhân dân (sửa đổi). Tuy nhiên có ý kiến đề nghị cân nhắc thời điểm thông qua Pháp lệnh vì có nhiều quy định liên quan mật thiết với Luật Công an nhân dân, trong khi Luật Công an nhân dân đã được Quốc hội quyết định sửa đổi và dự kiến xem xét thông qua tại kỳ họp thứ bảy (tháng 5/2014).
Video đang HOT
Dự thảo Pháp lệnh quy định Bộ trưởng Bộ Công an quyết định điều động các đơn vị CSCĐ thực hiện nhiệm vụ trên phạm vi toàn quốc. Tư lệnh CSCĐ quyết định điều động đến cấp Trung đoàn để thực hiện nhiệm vụ trên phạm vi toàn quốc…, Giám đốc Công an cấp tỉnh được điều động các đơn vị CSCĐ thuộc Công an cấp tỉnh. Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng CSCĐ, Cảnh sát đặc nhiệm trực thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động đóng quân độc lập, được điều động lực lượng thuộc quyền thực hiện các nhiệm vụ khẩn cấp trong địa bàn được phân công phụ trách, đồng thời báo cáo ngay Tư lệnh CSCĐ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
P.Thảo
Theo Dantri
Xử phạt 'xe không chính chủ' là... phạm luật
Không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành quy định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng.
Hiến pháp và pháp luật nước ta thừa nhận quyền sở hữu của nhân dân đối với tài sản của mình, nhưng không có bất cứ một luật nào do Quốc hội ban hành (như Bộ Luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao thông đường bộ, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ... ) bắt buộc người dân phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với một loại tài sản nào đó của mình.
Không tìm thấy ở đâu
Đó là chưa kể, có loại tài sản, luật còn quy định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu khi dân có yêu cầu.
Chẳng hạn, Luật Nhà ở (khoản 1 Điều 9) quy định "trường hợp chủ sở hữu nhà ở có yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở cho họ".
Tuy nhiên, có một số loại tài sản tuy luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn thực hiện một số hành vi nhất định, hay thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định liên quan đến tài sản, luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu trước khi thực hiện hành vi đó hay thực hiện giao dịch đó.
Chẳng hạn: Dân xây nhà hay mua một ngôi nhà không bị luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn đem bán ngôi nhà đã xây, đã mua đó thì phải đăng ký quyền sở hữu trước khi bán. Tàu biển không bị luật buộc phải đang ký quyền sở hữu, nhưng muốn neo đậu, đi lại trên biển, phải đăng ký quyền sở hữu.
Phương tiện giao thông thủy nội địa không bị luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn hoạt động, Luật Giao thông đường thủy nội địa quy định phải đăng ký quyền sở hữu.
Và nếu đã sang tên đổi chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Máy bay, cảng hàng không không buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn đưa vào khai thác thì Luật Hàng không dân dụng Việt Nam quy định phải đăng ký quyền sở hữu...
Cũng vậy, không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành quy định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng.
Luật Giao thông đường bộ, tại điểm a khoản 2 Điều 58, quy định người lái xe khi điều khiển phương tiện "phải mang theo đăng ký xe", không đồng nghĩa là quy định bắt buộc người dân phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu khi xe được mua bán, cho, tặng.
Đành rằng, để có được bản "đăng ký xe", người dân phải mang xe đi đăng ký. Bản "đăng ký xe" chỉ là điều kiện cho xe được tham gia giao thông. Muốn thỏa mãn điều kiện này, dân phải đăng ký quyền sở hữu cho xe. Nhưng việc dân có làm việc này hay không là do dân tự quyết định chứ Luật Giao thông đường bộ nói riêng, luật do Quốc hội ban hành nói chung không bắt buộc.
Tiện đây xin lưu ý thêm, khoản 2 Điều 58 nêu trên không bắt buộc người lái xe phải là người có tên trong "đăng ký xe". Điều này có nghĩa là Luật Giao thông đường bộ chỉ bắt buộc xe cơ giới muốn tham gia giao thông chỉ cần có bản "đăng ký xe" đi kèm mà không lệ thuộc vào người đứng tên trong "đăng ký xe". Và do đó, muốn tham gia giao thông, xe chỉ cần một lần đăng ký, hay nói cách khác là chỉ cần đăng ký lần đầu, để xe có được bản "đăng ký xe" đi kèm.
Đã sang tên đổi chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Ảnh minh họa
Và không đúng thẩm quyền
Và, cũng không tìm thấy bất cứ một quy định nào trong những luật do Quốc hội ban hành (như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Công an nhân dân, Luật Giao thông đường bộ,...) có trao quyền cho Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, kể cả Bộ Công an, được đặt ra quy định này. Đó là bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản này hay kia của mình nói chung, đối với tài sản là xe cơ giới nói riêng.
a) Bởi vậy, việc Bộ Công an đặt ra quy định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới như tại Điều 6 Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe là không đúng thẩm quyền của Bộ Công an nói riêng cũng như của Chính phủ nói chung.
Chính phủ, Bộ Công an chỉ có quyền, có trách nhiệm quy định về thủ tục đăng ký xe cơ giới. Còn dân có đi đăng ký xe hay không là thuộc quyền lựa chọn của dân. Dân muốn có bản "đăng ký xe" thì dân phải đi đăng ký xe.
b) Chiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật rằng, văn bản do cơ quan Nhà nước ban hành không đúng thẩm quyền, không phải là văn bản quy phạm pháp luật thì quy định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới tại Thông tư 36/2010/TT-BCA nêu trên không được coi là một quy định của pháp luật. Vì nó không đúng thẩm quyền của Bộ Công an nói riêng, của Chính phủ nói chung như đã nêu ở điểm (a) trên đây.
c) Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành, rằng hành vi vi phạm hành chính trước hết phải là hành vi vi phạm quy định của pháp luật, thì việc người dân không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là hành vi vi phạm hành chính.
Vì nó không phải là hành vi vi phạm quy định của pháp luật do quy định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu xe cơ giới của Bộ Công an, không phải là một quy định của pháp luật như đã nêu ở Điểm (b) trên đây.
Theo khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như theo điểm d khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính rằng người dân chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có vi phạm hành chính, thì việc cơ quan chức năng xử phạt người dân do họ không thực hiện đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới là sự vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành.
Vì việc không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là một hành vi vi phạm hành chính như đã nêu ở điểm (c) trên đây.
Nói một cách khác, việc Điều 33 Nghị định 34/2010/NDD-CP (được sửa đổi bởi Nghị định 71 /2012/NĐ-CP) của Chính phủ đặt ra quy định xử phạt người dân về việc người dân không chuyển quyền sở hữu ô tô, xe máy theo quy định hay nói nôm na là không thực hiện sang tên, đổi chủ khi mua bán, cho, tặng ô tô, xe máy là vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành.
Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản.
Nên quy định này cần phải được đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ hay bãi bỏ theo quy định tại những điều khoản có liên quan của Chương XI Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chiểu theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như Luật Xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực, Chính phủ chỉ có quyền quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không mang theo "đăng ký xe" khi xe tham gia giao thông mà không có quyền quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không đăng ký quyền sở hữu xe.
Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản.
Chẳng hạn như, nếu xe không chính chủ thì không thể đem xe làm đảm bảo cho các giao dịch dân sự không thể đem cầm cố, thế chấp để vay tiền ngân hàng. Đặc biệt, để pháp luật bảo hộ quyền sở hữu, nhất là đối với những xe có giá trị lớn.
Đối với người bán, cho, tặng xe đã đăng ký quyền sở hữu theo tên mình, vì Luật Giao thông đường bộ có những quy định, như khoản 5 Điều 4, khoản 4, 5, 10, 13, 14, 16, 22, 23 Điều 8, khiến người có tên trong "đăng ký xe" có thể rơi vào phiền toái, rơi vào trách nhiệm pháp lý, thậm trí là trách nhiệm hình sự khi có vi phạm quy định của pháp luật về xe, về người lái xe.
Thì để tránh điều này, người bán, cho, tặng xe hãy buộc người mua xe, người được cho, được tặng xe thực hiện ngay việc đăng ký quyền sở hữu để mình hết trách nhiệm. Vì, khi không chứng minh được việc xe đã được bán, cho, tặng thì người có tên trong "đăng ký xe" vẫn là chủ sở hữu của chiếc xe.
Theo soha
Trình Quốc hội Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 vào tháng 10/2013 Sáng 10/8, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ 7 dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. QH tiếp tục cho ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII...