Từ khóa quan trọng trong thơ Nguyễn Quang Thiều
Đọc kỹ thơ Nguyễn Quang Thiều, chúng ta nhận ra, một trong những từ khóa quan trọng là ‘dâng lên’.
Tư tưởng nghệ thuật định hình phong cách nghệ thuật, biểu hiện qua hình ảnh, hình tượng, ngôn từ, giọng điệu, nhịp điệu và cả hành vi – động thái của con người, thế giới trong thơ. Chính vì vậy, kinh nghiệm đọc thơ luôn có xu hướng kiếm tìm những yếu tố nổi bật, những thành tố được sử dụng với tần suất cao trong tác phẩm.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Ảnh: Việt Linh.
Đọc kỹ thơ Nguyễn Quang Thiều, chúng ta nhận ra, một trong những từ khóa quan trọng là “dâng lên”. Có khi là “Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên / Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt” ( Sông Đáy) thỏa tấm lòng mong mỏi nhớ quê. Có khi là “Cơn mưa chiều vàng thăm thẳm dâng lên” ( Câu hỏi cuối ngày) bởi những băn khoăn đang chất chứa trong tâm hồn.
Có khi “Tất cả dâng lên thẳm xa, mê đắm” ( Âm nhạc) mang nhịp điệu của sự sống trên vùng châu thổ. Xa quê, lưu lạc, trong tâm tưởng đứa con của đồng bãi “Vườn hoang dâng lên” ( Sám hối), “Sau lưng tôi dâng lên mùi khói rơm tươi, mùi châu chấu nướng” ( Trong tiếng súng bắn tỉa), “Dâng lên như mùa xuân thứ nhất/ Những con đường biền biệt tuổi thơ” (11 khúc cảm), “Ngùn ngụt dâng lên bản Thánh ca khói trầm uất, ngạo nghễ và tĩnh lặng” (T hánh ca tĩnh lặng), “Những cái rễ lại bước đi và nhựa / lại dâng lên tràn trề đỉnh đầu cây /… / Dâng cao mãi, dâng cao… con thuyền rồng trong hải lưu cuồn cuộn / Những hồ nước mắt dâng đầy… / Và âm nhạc dâng lên xứ sở” ( Nhịp điệu châu thổ mới)…
Như thế, “dâng lên” trở thành một động thái trữ tình của con người và thế giới trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Vấn đề đặt ra khi đối diện từ khóa này trong thơ Nguyễn Quang Thiều chính là: Tại sao lại xuất hiện động thái ấy?
Về sắc thái, “dâng lên” chứa đựng tâm trạng, cảm xúc và thái độ. “Dâng lên” – đưa lên cao một cách kính cẩn, ngưỡng vọng, gần với một nghi thức thiêng liêng. Chu Văn Sơn đã rất có lý khi nhận định rằng thơ Nguyễn Quang Thiều mang phong cách “sử thi tôn giáo”.
“Dâng lên” đáp ứng tinh thần ngưỡng vọng và thiêng liêng ấy. Thế giới nghệ thuật thể hiện tư tưởng, tinh thần, xúc cảm và tư duy của nhà thơ, thế nên, khi cái tôi ấy luôn đau đáu một nỗi niềm “thương nhớ đồng quê”, nhận ra sự kỳ vĩ của quê hương, của đồng bãi, sông hồ, của nhịp điệu châu thổ, của người dân quê…, nó luôn mang tâm thế của một điều gì bé nhỏ, côi cút, bơ vơ.
“Quỳ xuống”, “khóc”, “ngước mắt”, “ngửa mặt” chính là khi cái tôi ấy hướng về những điều cao cả, lớn lao, thân thiết, thiêng liêng mà xa vời: “Sao ta không chạy xuống sông, sao ta quỳ xuống đôi bờ / Ta ngửa mặt lên trời như con ếch cốm” ( Dòng sông), “Xin quỳ lạy / xin lặng câm vứt bỏ / Mắt đê mê từ thuở tóc chưa về” ( 11 khúc cảm), “Ta như hai đứa trẻ non mềm vừa mới sinh ra / Với hơi thở của người vừa ốm dậy / Ta ôm nhau ngước mắt gọi sao trời” ( Những ngôi sao), “Ta khóc trong cỏ dại / Ta khóc trong rơm rạ / Ta khóc thành rong rêu” ( Tha phương)… Những “tư thế trữ tình” này phù hợp với động thái “dâng lên”, cùng biểu đạt tư tưởng “sử thi tôn giáo” trong ngôi đền “Châu thổ” của Nguyễn Quang Thiều.
Video đang HOT
Một lý do khác, sâu xa hơn, chi phối sự hình thành trạng thái và tư thế trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều, chính là sự mất đi của những thực thể làm nên ký ức kỳ vĩ, nhiệm màu.
Hiện ra ám ảnh trong thơ là một không gian kiệt quệ, hoang vu, bị xâm thực bởi đô thị: “Ngoài kia, những cánh đồng đắng cay vì bệnh tật kéo dài / Hoàng hôn xấu xí / Ngũ cốc đang gập mình bởi cơn ho hóa chất sặc mùi /…/ những vòm cây chật vật đâm chồi /… / bầy chim cánh chập choạng, rũ rượi /…/ những đám mây trĩu ngực vì bụi /…/ dòng sông gió chảy giữa hai bờ cổ họng khản đặc của đêm /…/ linh hồn những hồ nước bị giết đang bay lượn tìm nơi hạ cánh” ( Lời cầu nguyện).
Châu thổ còn đâu, ký ức chỉ là sự mơ về trong đớn đau, tiếc nhớ. Xa xôi quá, thăm thẳm quá, mà thiêng liêng kỳ vĩ quá. Thế nên, tôi quỳ xuống nguyện cầu, tôi ngước lên chờ đợi chiêm ngắm và tôi khóc. Đó là tiếng khóc của một đứa con lưu lạc, một cái tôi khắc khoải hoài niệm để trở về.
“Dâng lên” là một từ khóa quan trọng (cũng có thể là quan trọng nhất) trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Có khi, động thái ấy được phát biểu ra bằng lời như đã dẫn, cũng có khi âm thầm giấu mình trong hình ảnh, hình tượng, trạng thái khác. Ở bình diện lớn hơn, thơ Nguyễn Quang Thiều vẫn trội lên không khí phồn sinh màu mỡ với nhịp sống dồi dào, bền bỉ trong ánh sáng phục sinh, khải huyền.
Phía cỗi cằn hoang vu là quãng trầm để cảm hứng say mê, ngưỡng vọng có dịp rung lên một cách xúc động hơn. Tuy vậy, dù ở ngả nào, trong kiệt quệ lưu đày hay trong say mê ngưỡng vọng, cái tôi ấy vẫn ở vị trí bé nhỏ, thấp hơn sự vĩ đại của sự sống châu thổ. Chính vì thế, “dâng lên” cứ mãi dâng lên như nguồn mạch bất diệt của đất đai và con người trong thơ Nguyễn Quang Thiều.
Mỹ Sơn được coi là Angkor Wat của Việt Nam
Thánh địa Mỹ Sơn là địa điểm khảo cổ quan trọng, với nhiều ngôi đền Ấn Độ giáo cổ kính ẩn mình giữa rừng già, được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.
Ảnh: Steve Douglas.
Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) là quần thể di tích các đền thờ Ấn Độ giáo ở miền Trung, được xây dựng suốt 10 thế kỷ. Ngày nay, khu di tích được xếp vào danh sách Di sản Thế giới.
Chuyên trang du lịch The Travel giới thiệu những ngôi đền tại Mỹ Sơn khiến người ta liên tưởng đến các công trình nổi tiếng nhất của Angkor Wat ở Campuchia.
Kho báu khảo cổ học vĩ đại nhất Việt Nam
Mỹ Sơn là câu chuyện về một thành phố lụi tàn của một nền văn minh đã mất. Giống với các thành phố cổ kính khác ở Đông Nam Á, nơi đây "lạc" vào sự đổ nát và hoang tàn giữa rừng rậm tươi tốt.
Ảnh: Franks Travelbox.
Các đền thờ Ấn Độ giáo tại Mỹ Sơn thờ thần Shiva (còn được gọi với tên khác như Bhadreshvara). Những công trình này được xây dựng trong khoảng thời gian 1.000 năm từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 14 bởi các vị vua Chăm Pa. Mỹ Sơn cũng được đánh giá là nơi có quần thể đền Ấn Độ giáo quan trọng nhất ở Đông Nam Á, đôi khi được so sánh với Angkor Wat.
Thánh địa Mỹ Sơn không chỉ là một địa điểm tôn giáo quan trọng mà còn là nơi chôn cất của hoàng gia Chăm Pa và các anh hùng dân tộc của vương quốc. Nơi đây cũng là địa điểm khảo cổ có người sinh sống lâu nhất trong khu vực.
Tàn tích còn lại sau bom đạn
Mỹ Sơn được người Pháp tái khám phá vào thế kỷ 19. Sau đó, họ đã khôi phục các phần của khu phức hợp cổ đại. Có thời điểm, địa điểm này có hơn 70 ngôi đền cùng nhiều tấm bia với những dòng chữ quan trọng được khắc bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn.
Đáng tiếc, phần lớn kiến trúc cổ ở đây đã bị phá hủy bởi cuộc ném bom của Mỹ. Ngày nay, trong số khoảng 70 ngôi đền từng tồn tại, con số chỉ còn lại khoảng 20.
Mặc dù vậy, tàn tích của nền văn hóa Chăm Pa cổ cùng 20 ngôi đền vẫn mang đến một khung cảnh uy nghi và ấn tượng cho bất cứ ai được đến thăm, khám phá. Đi giữa khu di tích, du khách sẽ ngỡ như lạc đến thời kỳ hoàng kim của vương quốc Chăm Pa cách đây hàng trăm năm.
Ảnh: Andychewwk, Zenm0nkey108.
Tham quan các ngôi đền ở Thánh địa Mỹ Sơn
Giống như Angkor Wat, Thánh địa Mỹ Sơn có khung cảnh đẹp mê hoặc trong thung lũng rừng nhiệt đới tươi tốt. Di sản thế giới được UNESCO công nhận thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Mỹ Sơn cách thành phố du lịch nổi tiếng Đà Nẵng khoảng 69 km về phía tây nam và cách kinh đô Trà Kiệu lịch sử của Chăm Pa khoảng 10 km.
Mỹ Sơn là địa điểm khảo cổ lâu đời của Việt Nam. Ảnh: Shutterstock.
Có rất nhiều tour du lịch giá cả phải chăng đến Mỹ Sơn với dịch vụ đón tại khách sạn và hướng dẫn viên chuyên nghiệp. Du khách sẽ được nghe nhiều câu chuyện thú vị về những ngôi đền cổ và địa điểm này. Bạn cũng có thể tự di chuyển đến khu di tích, mua vé vào cổng và tự do khám phá, check-in theo lộ trình riêng của mình.
Đến với đảo Nẹ Cùng với đảo Mê, đảo Biện Sơn (thị xã Nghi Sơn), đảo Nẹ (Hậu Lộc) luôn nắm giữ vị trí quan trọng trên vùng biển Thanh Hóa. Không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự, quốc phòng, với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hệ sinh thái đa dạng, phong phú cùng những dấu ấn lịch sử - văn hóa - tín...