Từ ‘cõi chết’ trở về, sinh vật tưởng tuyệt chủng vẫn sống tốt, khỏe mạnh
15 năm sau khi bị liệt vào danh sách tuyệt chủng, sinh vật này mới được ‘ giải oan’.
Một loài cá được cho là đã tuyệt chủng cách đây 15 năm đã khiến các nhà khoa học ngạc nhiên sau khi được tìm thấy đang sống khỏe mạnh trong tự nhiên.
Sự tuyệt chủng tạm thời của cá Houting
Houting, một loài cá sống ở các cửa sông Biển Bắc – vùng biển cổ trên thềm lục địa châu Âu – được chính thức xếp vào danh sách tuyệt chủng vào năm 2008 trong Danh sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN).
Houting, được biết đến với tên Latin là Coregonus oxyrinchus, là một loài cá trắng nhỏ từng bơi ở sông suối khắp châu Âu.
Loài cá Houting chính thức công nhận là tuyệt chủng vào năm 2008. Hình ảnh này được tạo ra vào năm 1785. Ảnh: Schmidt, F. G/Wikimedia Commons
Vào giữa thế kỷ 20, khi nghề cá phát triển và môi trường sống thay đổi, Houting không còn xuất hiện các con sông, khiến nhiều người tin rằng nó đã biến mất vĩnh viễn.
IUCN sau đó đã xếp loài cá này vào danh sách tuyệt chủng – một hiểu lầm mà 15 năm sau các nhà khoa học mới vỡ lẽ.
Gần đây nhất, các nhà nghiên cứu từ Đại học Amsterdam ( Hà Lan) và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London (Anh) đã trích xuất DNA từ nhiều mẫu Houting được bảo tồn trong bảo tàng, có niên đại lên tới hơn 250 năm tuổi.
Tiếp theo, họ so sánh DNA của những con cá Houting trong bảo tàng này với DNA từ nhiều loài anh chị em của nó hiện đang tồn tại, trong đó có loài cá trắng châu Âu (Coregonus lavarretus).
Cá trắng châu Âu (Coregonus lavaretus) là loài cá nước ngọt phổ biến ở châu Âu, thường được gọi là Lavaret hoặc Whitefish Ảnh: Federica Grassi/Getty Images
Kết quả, các nhà sinh vật học hầu như không tìm thấy bất kỳ sự khác biệt di truyền nào giữa cá Houting và loài cá trắng châu Âu. Chúng giống nhau về mặt di truyền đến mức chúng có thể được coi là một phần của cùng một loài.
Trong phần kết luận của nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí BMC Ecology and Evolution, các nhà khoa học đã mô tả cách họ phân lập DNA ty thể từ cá.
Cuối cùng, tất cả các mẫu của loài cá Houting được kiểm tra đều xếp vào cùng nhóm với cá trắng châu Âu (Coregonus lavarretus).
Tác giả nghiên cứu Rob Kroes thuộc Đại học Amsterdam nhận xét: “Cá trắng châu Âu khá phổ biến ở Tây và Bắc Âu, cả ở sông hồ nước ngọt, cửa sông và biển.
Bởi vì chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt về loài giữa loài cá Houting trong quá khứ và cá thịt trắng châu Âu ngày nay, nên chúng tôi không coi loài cá Houting này đã tuyệt chủng”.
Vậy, tại sao cá Houting bị tuyên bố tuyệt chủng vào năm 2008?
Rob Kroes giải thích: “Thường xảy ra sự nhầm lẫn về việc một số loài động vật có phải là cùng một loài hay không. Đặc biệt là cá. Chúng thường có nhiều biến đổi về đặc điểm hình thái trong một loài.
Một hình ảnh cho thấy một con cá trắng. Houting, một loài cá trắng được cho là đã tuyệt chủng, thực chất là cùng loài với một loài phong phú có tên là cá trắng châu Âu, hiện vẫn sinh sôi và phát triển trong tự nhiên. Ảnh: ISTOCK / GETTY PLUS
Trong trường hợp này, các nhà sinh vật học từ lâu đã cho rằng cá Houting là một loài khác với cá thịt trắng châu Âu do chiều dài của mõm và số lượng mang của chúng.
Nhưng những đặc điểm này không phù hợp để nói rằng Houting là một loài khác. Nghiên cứu DNA của chúng tôi hiện đã chứng minh điều đó”.
Sau phát hiện này, các nhà khoa học sẽ tiến hành đổi tên Latin cho loài cá Houting này. Tuy nhiên, việc đổi tên vẫn cần nghiên cứu kỹ thêm trước khi công bố chính thức.
Như vậy, không phải Houting đã tuyệt chủng, chỉ là môi trường sông ngòi mà chúng ưa thích trước đây không còn phù hợp nữa và chúng đã đi đến nơi khác sinh sống. Chính xác hơn, chúng chưa bao giờ tuyệt chủng ngay từ đầu.
Lần đầu tiên phục hồi thành công RNA từ loài hổ Tasmania đã tuyệt chủng
Lần đầu tiên các nhà nghiên cứu cho biết họ đã phục hồi được RNA - vật liệu di truyền có trong tất cả các tế bào sống có cấu trúc tương tự DNA - từ da và cơ khô của một con hổ Tasmania được lưu trữ từ năm 1891 tại một bảo tàng ở Stockholm, Thụy Điển.
Xác của hổ Tasmania, một loài động vật đã tuyệt chủng trong một bộ sưu tập tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Thụy Điển ở Stockholm. Ảnh: Giáo sư Love Dalén.
Hổ Tasmania là một loài thú có túi ăn thịt, lông vằn vện như loài hổ, kích cỡ bằng loài chó sói, còn được gọi là thylacine, từng lang thang trên lục địa Australia và các đảo lân cận. Chúng là loài săn mồi đỉnh cao, chuyên săn chuột túi và các con mồi khác. Vì con người mà loài này hiện đã tuyệt chủng.
Nhưng điều đó không có nghĩa là các nhà khoa học đã ngừng tìm hiểu về nó. Ngày 19/9, lần đầu tiên các nhà nghiên cứu cho biết họ đã phục hồi được RNA - vật liệu di truyền có trong tất cả các tế bào sống có cấu trúc tương tự DNA - từ da và cơ khô của một con hổ Tasmania được lưu trữ từ năm 1891 tại một bảo tàng ở Stockholm, Thụy Điển.
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã trích xuất DNA từ động vật và thực vật cổ đại, trong số đó có loài có niên đại lên tới 2 triệu năm tuổi. Nhưng nghiên cứu này đánh dấu lần đầu tiên RNA - kém ổn định hơn nhiều so với DNA - được phục hồi từ một loài đã tuyệt chủng.
Mặc dù không phải là trọng tâm của nghiên cứu này nhưng khả năng trích xuất, giải trình tự và phân tích RNA cũ có thể thúc đẩy nỗ lực của các nhà khoa học khác trong việc tái tạo các loài đã tuyệt chủng. Việc phục hồi RNA từ các virus cũ cũng có thể giúp giải mã nguyên nhân gây ra các đại dịch trong quá khứ.
DNA (axit deoxyribonucleic) và RNA (axit ribonucleic) - anh em họ phân tử sinh học - là những phân tử cơ bản trong sinh học tế bào.
Một cặp hổ Tasmania được chụp ảnh tại một vườn thú ở Australia vào năm 1933. Ảnh: Getty Images.
DNA là một phân tử sợi đôi chứa mã di truyền của sinh vật, mang các gene tạo ra mọi sinh vật sống. RNA là một phân tử chuỗi đơn mang thông tin di truyền mà nó nhận được từ DNA, đưa thông tin này vào thực tế. RNA tổng hợp toàn bộ protein mà cơ thể cần để sống và hoạt động để điều chỉnh quá trình trao đổi chất của tế bào.
Nhà di truyền học và nhà tin sinh học Emilio Mármol Sánchez, thuộc Trung tâm Cổ sinh vật học và SciLifeLab ở Thụy Điển, tác giả của nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nghiên cứu bộ gene (Genome Research) cho biết: "Trình tự RNA mang đến cho bạn cảm nhận về quá trình điều hòa sinh học và trao đổi chất thực sự đang diễn ra trong tế bào và mô của loài hổ Tasmania trước khi chúng tuyệt chủng".
Nhà di truyền học và đồng tác giả nghiên cứu Marc Friedländer, Đại học Stockholm và SciLifeLab cho biết: "Nếu chúng ta muốn hiểu về các loài đã tuyệt chủng, chúng ta cần hiểu chúng có những gene bổ sung nào, cũng như gene đang làm gì và gene nào đang hoạt động".
Có những câu hỏi về việc RNA có thể tồn tại trong bao lâu trong các điều kiện - nhiệt độ phòng trong tủ - những phần còn lại này đã được bảo quản. Xác con hổ Tasmania tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Thụy Điển ở trạng thái bán ướp xác, da, cơ và xương được bảo tồn, nhưng nội tạng đã mất.
Đầu của hổ Tasmania tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Thụy Điển. Ảnh: Giáo sư Love Dalén
Giáo sư Love Dalén, nhà di truyền học tiến hóa thuộc Trung tâm Cổ sinh vật học cho biết: "Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nghĩ rằng RNA sẽ chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn - như vài ngày hoặc vài tuần - ở nhiệt độ phòng. Điều này có thể đúng khi các mẫu ướt hoặc ẩm, nhưng dường như không đúng khi chúng được sấy khô".
Hổ Tasmania trông giống chó sói, có thêm những sọc giống hổ trên lưng. Khoảng 50.000 năm trước, sự xuất hiện của người dân ở Australia đã dẫn đến sự mất mát số lượng lớn loài hổ này.
Sự xuất hiện của những người thực dân châu Âu vào thế kỷ 18 đã gây ra sự diệt vong cho những quần thể hổ Tasmania còn lại tập trung ở đảo Tasmania. Khi đó, loài hổ này được xem là mối nguy hiểm đối với vật nuôi và được chính quyền treo thưởng để săn bắt. Con hổ Tasmania được biết đến cuối cùng đã chết trong vườn thú Tasmania vào năm 1936.
"Câu chuyện về sự tuyệt chủng của loài thylacine theo một nghĩa nào đó là một trong những sự kiện tuyệt chủng do con người gây ra được ghi chép và chứng minh rõ ràng nhất. Đáng buồn thay, hổ Tasmania được tuyên bố là được bảo vệ chỉ hai tháng trước khi cá thể cuối cùng được biết đến đã chết trong điều kiện nuôi nhốt, quá muộn để cứu chúng khỏi sự tuyệt chủng", nhà nghiên cứu sau tiến sĩ Mármol nói.
Các sáng kiến tư nhân "hồi phục loài tuyệt chủng" đã được đưa ra nhằm mục đích hồi sinh một số loài đã tuyệt chủng như hổ Tasmania, dodo hoặc voi ma mút lông cừu.
"Mặc dù chúng tôi vẫn hoài nghi về khả năng thực sự tái tạo một loài đã tuyệt chủng bằng cách sử dụng chỉnh sửa gene trên họ hàng động vật còn sống - và khoảng thời gian để đi đến đạt được điều đó chưa thể xác định - nhưng chúng tôi ủng hộ việc nghiên cứu thêm về sinh học của những loài động vật đã tuyệt chủng này", anh Mármol cho hay.
Loại cá quý hiếm, giá hàng trăm triệu, mỗi lần xuất hiện gây xôn xao Cá sủ vàng là loại cá cực kỳ quý hiếm được ví như 'cục vàng biển', giá hàng trăm triệu, thậm chí tiền tỷ. Tuy nhiên, loại cá này nằm trong danh mục thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam, cần được bảo vệ. Những vụ ngư dân bắt được cá sủ vàng gây xôn xao Gần đây,...