TS.Nguyễn Đức Kiên: Xử lý nợ xấu, ngân hàng hãy bán tài sản đi!
“Nếu có nợ xấu, việc cần làm trước tiên là ông chủ ngân hàng cần phải bán tài sản của mình đi để giữ ổn định cho ngân hàng, chứ không phải làm ngân hàng, khi tạo ra lợi nhuận thì chia nhau hết, đến khi khó khăn kêu VAMC”.
TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã chia sẻ như vậy khi trao đổi với báo giới bên hành lang Quốc hội về nợ xấu và các nút thắt của kinh tế hiện nay.
TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.
Ông có bình luận gì về nợ xấu và hướng xử lý nợ xấu hiện nay?
Nếu có nợ xấu, việc cần làm trước tiên là ông chủ ngân hàng cần phải bán tài sản của mình đi để giữ ổn định cho ngân hàng, chứ không phải ông làm ngân hàng, khi tạo ra lợi nhuậnthì chia nhau hết, đến khi khó khăn thì kêu VAMC anh phải giải ngân cho em.
Tiền VAMC mua nợ xấu là tiền thuế của người dân, nên không thể chi một cách vô lý.
Tôi không bao giờ bỏ phiếu cho kiểu chi như thế. Trong trường hợp đấy, chúng ta cần phải hỏi mấy ông chủ ngân hàng là anh đã bán xe chưa? Anh có đi xe máy để đi làm không? Đầu tiên, anh phải bán tài sản của anh để xử lý nợ xấu của anh đã đi…
Còn việc sử dụng VAMC là để đẩy bớt một phần nợ xấu ra khỏi bảng cân đối tài sản của các ngân hàng, để khoản nợ xấu ấy không treo trong ngân hàng nữa. Và ngân hàng được hạch toán và trừ đi phụ phí 25%/năm trên tổng số nợ xấu đã bán cho VAMC.
Như vậy, VAMC chính là một hình thức giúp các ngân hàng khoanh khoản nợ xấu đó. Và sau khi đã làm sạch được bảng cân đối tài sản rồi thì sẽ đẩy mạnh cho vay ra nền kinh tế.
Có một thực tế là nợ xấu vẫn đang tăng lên trong khi nợ xấu cũ vẫn chưa được xử lý. Với thực tế này, liệu đến cuối năm có thể đưa được nợ xấu xuống 3%?
Phải nói rằng, một nền kinh tế hoạt động là phải có nợ xấu, chỉ trong nền kinh tế kế hoạch hóa thì mới không có nợ xấu. Vấn đề là làm thế nào để tăng cường biện pháp tự quản trị của doanh nghiệp, khi phát sinh nợ xấu thì dự phòng rủi ro phải có để xử lý được.
Trong trường hợp ngân hàng không xử lý được thì nhà nước sẽ can thiệp bằng biện pháp của cơ quan quản lý. Ở đây, tôi muốn nói đến việc quy trách nhiệm cho những cá nhân gây khó khăn cho nền kinh tế và họ phải chịu trách nhiệm.
Nhiều ý kiến cho rằng nợ xấu phát sinh là do lợi ích nhóm. Tuy nhiên, vấn để xử lý lợi ích nhóm trong thời gian qua dường như không có nhiều tiến triển?
Chúng ta phải chấp nhận có lợi ích nhóm, phải có lợi ích nhóm thì người ta mới lập ngân hàng cổ phần để kinh doanh. Chúng ta không thể nói rằng phải lập ngân hàng cổ phần theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội được. Có điều lợi ích này phải hài hòa giữa lợi ích của người bỏ tiền đầu tư, người gửi tiền và toàn xã hội.
Video đang HOT
Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, thì phải có tiêu chuẩn trước, rồi nhiệm vụ xã hội mới đi sau, nhiệm vụ này Nhà nước làm. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng rằng, trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế phải có những thứ khác với tư duy của mình trong thời kỳ kế hoạch hóa.
Hiện nay, chúng ta có vấn đề là nhìn vào ngân hàng cổ phần với cái nhìn giống như một ngân hàng quốc doanh là chưa chuẩn.
Thời gian qua dư luận rất quan tâm đến vụ kiện của bầu Kiên. Vấn đề dư luận quan tâm là làm thế nào để quản lý được lợi ích nhóm, không xảy ra trường hợp lũng đoạn thị trường như thời gian qua?
Bắt đi tù. Trường hợp bầu Kiên là một điển hình. Nếu nói quản lý chưa được tốt thì không thể bắt được bầu Kiên. Tuy nhiên, chúng ta sống trong xã hội pháp quyền nên muốn bắt và xử ai đó thì phải có chứng cứ. Dù trong lòng ta có không bằng lòng khi thấy người ta giàu lên nhanh quá, nhưng chúng ta không có chứng cứ người ta phạm pháp, thì không thể bắt, ngay cả khi nói về họ cũng phải cân nhắc.
Nói như thế để hiểu một điều, trong một xã hội, chúng ta phải nhìn nhau bằng con mắt thân thiện, tức là nhìn người đối diện là một công dân tốt. Sau đó, qua quá trình hoạt động của người ta, thấy nó có tác động đến nền kinh tế thì chúng ta có biện pháp xử lý.
Hiện chúng ta đã có những biện pháp phòng ngừa, răn đe. Có điều những biện pháp phòng ngừa ấy của chúng ta vẫn chưa lường hết được những tình huống sẽ xảy ra trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường.
Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đang diễn ra quá thận trọng, do nền kinh tế đang phụ thuộc vào vốn ngân hàng, trong khi thị trường vốn vẫn chưa thực sự phát triển. Đây có phải là nguyên nhân khiến chúng ta chưa dám mạnh dạn cho ngân hàng phá sản?
Mong muốn là một chuyện. Thực tế của thị trường lại là một chuyện. Chúng ta thực hiện mọi nhiệm vụ của mình, nhưng với giá chi phí hợp lý, chứ không có chuyện giá chi phí bằng không. Có nghĩa là sẽ phải có đổ vỡ, sẽ phải có tổn thất nhưng mà tổn thất không tạo thành lũ ống, lũ quét để hình thành vùng ngập lụt.
Trong phiên thảo luận ở tổ về tình hình kinh tế – xã hội, có khá nhiều ý kiến cho rằng, Chính phủ nên nới lạm phát một chút để hỗ trợ tăng trưởng. Ông có đồng tình với ý kiến này?
Thực ra, về mặt lý thuyết trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô bao giờ cũng mong muốn lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì mới tạo được sự tăng trưởng thực sự. Chúng ta là một nước đang phát triển và đến bây giờ, nền kinh tế vẫn chủ yếu phải “sống” bằng đầu tư. Khi mà tăng trưởng dựa trên đầu tư thì phải đẩy giá lên và dẫn tới tăng lạm phát.
Tuy nhiên, theo tôi ở thời điểm này cũng nên quan tâm tới sự hài hòa giữa tăng trưởng và lạm phát. Ví dụ, như năm 2012, lạm phát là 6,04% nhưng nếu trừ đi giá từ điều chỉnh giá dịch vụ, y tế, giáo dục khoảng 3% thì lạm phát thực chỉ còn hơn 3%.
Phân tích như vậy để thấy rằng, nếu lạm phát ở mức thấp mà kéo dài như vậy, thì động lực cho nền kinh tế, hay nói cách khác nền kinh tế “du di” về tăng trưởng sẽ khó hơn. Vì vậy, chúng ta cần chọn thời điểm nào đó để cân bằng giữa tăng trưởng và lạm phát đảm bảo đời sống xã hội.
Thời gian vừa qua, về mặt quản lý nhà nước, chúng ta đã làm rất nhiều việc, ví như Chính phủ cũng đã có nhiều chính sách thuế hỗ trợ doanh nghiệp. Theo tôi, chúng ta đã làm khá tốt ở mặt quản lý nhà nước.
Và còn lại một số việc cần hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới là đẩy mạnh cải cách trong nội bộ trong bộ máy Nhà nước để bộ máy hành chính công trở thành bộ máy phục vụ tốt hơn cho doanh nghiệp và người dân, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh tốt hơn…
Xin cảm ơn ông!
Nguyễn Hiền
Theo Dantri
Thống đốc: "Chúng tôi đang phải căng như dây đàn"
"Chúng tôi đang phải căng như dây đàn, tay trái thả ra đồng nào là tay phải tính chuyện thu về đồng đó"...
Theo thống kê, tỷ trọng dư nợ cho bất động sản khoảng 10%, cho vay tiêu dùng khoảng 6%, phần còn lại là sản xuất - Ảnh minh họa.
Theo một lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 24/9, tăng trưởng tín dụng ở mức 6,7%. Dù tăng thấp và nhiều ý kiến đòi nới lỏng điều kiện vay nhưng có vẻ như nhà điều hành đã biết lảng tránh vòng luẩn quẩn "thắt chặt - thả lỏng" thường thấy ở mấy năm trước.
Ba năm trước, cứ sau một thời gian ngắn thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, Ngân hàng Nhà nước gần như lập tức nới lỏng; thậm chí, đầu năm phanh gấp thì gần giữa năm đã thấy cho trôi tự do.
Thay một quan niệm không dễ
Ở thời điểm đó, theo sau mỗi chu kỳ như nói trên, dường như Ngân hàng Nhà nước chỉ chú ý và tập trung đẩy tiền ra để hạ lãi suất xuống. Đây luôn được coi là giải pháp gần như duy nhất để cứu sản xuất sau thời gian đình trệ do thắt chặt tiền tệ, thay vì chú ý đến sự phân bổ của nguồn lực tín dụng ở những lĩnh vực căn cơ cũng như điều kiện tiếp cận tín dụng chuẩn mực.
Thế nên, như đứa bé khóc vòi vĩnh sẽ nín thinh khi được mẹ cho bú; những tiếng kêu "khó vay vốn", "ngân hàng đòi tài sản bảo đảm" ở thời điểm đó vì thế mà ít ỉ eo.
Ba năm gần đây, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cuộc đại phẫu toàn hệ thống. Với quan điểm "tiên trách kỷ, hậu trách nhân", nhà điều hành gần như làm ngơ trước cảnh báo "đổ vỡ hệ thống" để một lúc, dẹp luôn 9 ngân hàng yếu kém (đến nay đã xử lý được 8) nhưng không dùng đến ngân sách.
Từ đó, Ngân hàng Nhà nước thu về không ít thành quả mà trước hết, 9 ngân hàng nói trên không thể làm cái việc ngược đời là "ngân hàng bé dâng cao lãi suất để tranh cướp vốn của ngân hàng lớn" và đi cùng là thông điệp: "Sẽ chơi sát ván với những ngân hàng đùa bỡn với kỷ cương".
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước không ngần ngại công bố toàn bộ số liệu nợ xấu của hệ thống, dọn đường cho việc ra đời hai đề án xử lý nợ xấu, với nhiều giải pháp trong đó có thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) và tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015.
Có một điểm đáng chú ý ở đây, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu bất cứ ngân hàng nào có tỷ lệ nợ xấu trên 3% là phải bán về VAMC và chỉ dừng lại khi nào nợ xấu dừng ở dưới ngưỡng nói trên.
Song song, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu tổ chức tín dụng hàng năm trích 20% giá trị trái phiếu nhận được từ VAMC sau khi bán nợ xấu từ nguồn dự phòng rủi ro để tự xử lý nợ xấu; đồng thời, với số nợ xấu chưa bán cho VAMC, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng phải lấy lợi nhuận để xử lý.
Vì lẽ này, gần đây, cụm từ "ngân hàng lãi khủng" đã thưa thớt và vắng hẳn trong các bản tin truyền thông của ngân hàng. Làm như vậy, ít nhất trong ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước tạm thời tránh được tiếng "lấy tiền thuế của dân để xử lý hậu quả do lòng tham của ông chủ ngân hàng" dồn dập vang lên ở nghị trường.
Còn tất nhiên, để có thể xử lý được dứt điểm cục nợ xấu, vẫn còn nhiều bàn cãi xung quanh câu chuyện tiền thực và xuất xứ nguồn tiền. Nhưng cái được lớn nhất là các ngân hàng đã tự quay về với chuẩn mực quản trị nghiêm túc, hiện tượng vung tín dụng bừa bãi vào các tài sản rủi ro đã bị ngăn lại đáng kể.
Không phải bỗng dưng, tại cuộc gặp mặt giữa Ngân hàng Nhà nước và Hội Doanh nghiệp trẻ ngày 23/9, trước ý muốn nới lỏng điều kiện vay, gia tăng cho vay tín chấp của ông Nguyễn Thành Phương, Tổng giám đốc Kangaroo, ông Phạm Quang Dũng, Phó tổng giám đốc Vietcombank thẳng thắn: "Tiền ngân hàng là tiền của dân. Chưa hiểu gì về doanh nghiệp mà cho vay tín chấp thì cầm chắc mất tiền. Doanh nghiệp đưa tiền cho nhau còn kèm theo ràng buộc trả nợ thì với ngân hàng cũng vậy thôi".
Được gì khi "đổi ngắn lấy dài"?
Có một yếu tố khá bất lợi cho Ngân hàng Nhà nước là quá trình siết chặt kỷ cương tín dụng lại diễn ra đúng vào thời điểm kinh tế trong và ngoài nước suy thoái, tổng cầu suy giảm trầm trọng. Trong khi đó, sự bê trễ trong quản lý việc thành lập doanh nghiệp đã tạo ra đội ngũ đông đảo số lượng nhưng tiềm lực tài chính yếu; vốn chủ sở hữu thấp, tồn tại chủ yếu dựa vào vốn vay nhưng lại sử dụng không đúng với ngành nghề sở trường.
Thế nên, không có gì lạ, suốt từ hai năm nay, gần như ở đâu cũng kêu "khó tiếp cận vốn", "ngân hàng đòi tài sản thế chấp", "tại sao nói cho vay tín chấp mà không làm"...
Trước những áp lực này, hai năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức các chuyến đi tiếp xúc thực tế với doanh nghiệp và lãnh đạo chính quyền để thu thập thông tin, thậm chí, làm trọng tài phân xử luôn những mắc mớ.
Tuy nhiên, cũng từ những chuyến đi này, đã phơi bày một thực tế không mấy vui vẻ: một bộ phận lớn doanh nghiệp vẫn quen coi vốn ngân hàng như "của chùa".
Kể cả khi lâm vào tình trạng giá trị doanh nghiệp bị âm, nợ nần chồng chất, thị trường không có nhưng vẫn muốn vay đầu tư. Nói không với nới lỏng và tín dụng dễ dãi nhưng bù lại, chính sách đang cố hướng dòng vốn này vào những lĩnh vực căn cơ hơn.
Theo thống kê, tỷ trọng dư nợ cho bất động sản khoảng 10%, cho vay tiêu dùng khoảng 6%, phần còn lại là sản xuất; trong đó, 5 lĩnh vực ưu tiên được chú trọng hơn cả.
Ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2007, Ngân hàng Nhà nước mua 7 tỷ USD mà lạm phát vọt lên 23%; từ 2011 đến nay, Ngân hàng Nhà nước mua trên 30 tỷ USD nhưng CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân 2011 và 2013 tăng 6,6% so với 2012. Năm nay, CPI chắc chỉ trên 5%.
Cùng đó, GDP 2013 tăng 5,42% nhưng tín dụng chỉ tăng 8,83%. 6 tháng đầu 2014, tín dụng tăng chưa đến 5% nhưng GDP tăng 5,18%.
"Hiện nay, cầu thị trường đang thấp, doanh nghiệp phải cẩn trọng trong đầu tư. Phải thấy nguy cơ lạm phát vẫn hiện hữu, dù tháng này, CPI ở Tp.HCM là 1%, Hà Nội 0,5% nhưng chưa phải thời điểm mùa vụ. Dù với bất cứ giá nào thì bảo vệ các yếu tố vĩ mô, nhất là lạm phát phải đưa lên hàng đầu. Chúng tôi đang phải căng như dây đàn, tay trái thả ra đồng nào là tay phải tính chuyện thu về đồng đó. Vĩ mô có ổn định thì doanh nghiệp mới tính kế làm ăn lâu dài được", ông Bình nói.
Theo Nguyễn Hoài
Vneconomy