Truyền thuyết mộ cổ bí ẩn và kẻ đạo mộ tuyệt tình nhất trong lịch sử
Đạo mộ ( trộm mộ) là chuyện thường xuyên diễn ra hơn nghìn năm ở Trung Quốc, đặc biệt là thời cổ đại.
Nhưng có một ngôi mộ đặc biệt, chủ nhân của nó thực sự quá lợi hại. Mộ bị giới trộm ghé thăm 30 lần, nhưng chưa từng bị mất một bảo vật nào.
Đạo mộ ( trộm mộ) là chuyện thường xuyên diễn ra hơn nghìn năm ở Trung QUốc, đặc biệt là thời cổ đại. Đạo mộ vốn dĩ khởi nguyên từ thời Tam Quốc cuối Đông Hán. Hơn nữa, tổ sư gia của nghề này không ai khác, chính là Tào Tháo.
Theo một vài ghi chép cũ, khi đó Tào Tháo nhằm tích lũy quỹ bổng lộc cho binh tướng, đã đặc biệt thành lập thêm hai nhóm tướng lĩnh trong quân đội. Đó là phát khâu trung lang tướng và mạc kim hiệu úy, tương đương với vị trí phụ trách đội đạo mộ quốc gia, công việc chủ yếu là tìm các ngôi mộ để trộm tài sản xung vào quỹ bổng lộc.
Mặc dù đạo mộ là một công việc ít được hoan nghênh, nhưng trong dân gian vẫn lưu truyền rất nhiều truyền thuyết thú vị xoay quanh đạo mộ. Ví dụ như câu chuyện Ngũ Tử Tư phạt Sở thời Xuân thu chiến quốc. Ngũ Tử Tư do bất hòa với nước Sở, lánh nạn sang nước Ngô. Theo ghi chép trong “Tả truyện”, Ngũ Tử Tư sau khi đắc thế làm thừa tướng bên Ngô, dẫn quân chinh phạt nước Sở. Ông phái binh lính truy tìm lăng mộ của Sở Bình Vương vừa băng hà. Tuy nhiên họ không tìm ra kết quả vì Sở Bình Vương trước đó sợ vị trí lăng mộ bị tiết lộ, đã sai người giết hết tất cả thợ xây mộ.
Nhưng sau nhiều lần tìm kiếm, Ngũ Tử Tư vẫn tìm thấy lăng mộ của vua Sở Bình Vương, đào bới và đem thi thể ra quất 300 roi để xả mối hận giết cha. Có thể nói Ngũ Tử Tư được xem là kẻ đạo mộ tuyệt tình nhất trong lịch sử.
Thời cận đại, kẻ trộm mộ nổi tiếng nhất là Tôn Điện Anh. Khi Từ hy thái hậu chết chưa đầy 20 năm, người này đã mò tới Lăng Thanh Đông, vơ vét toàn bộ số của cải chôn cùng bà, thậm chí tới viên dạ minh châu Từ Hy ngậm trong miệng cũng bị mang đi.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một số truyền thuyết về đạo mộ. Trong số đó lại có một ngôi mộ đặc biệt, chủ nhân của nó thực sự quá lợi hại. Mộ bị giới trộm ghé thăm 30 lần, nhưng chưa từng bị mất một bảo vật nào.
Lăng mộ này nằm ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, là mộ của một vương tử thời nhà Chu, cách đây hơn 2.000 năm. Người dân địa phương đồn đại rằng dưới mộ có chôn một đỉnh vàng, bởi vậy mà lăng mộ này thu hút sự chú ý của vô số kẻ trộm mộ. Tuy nhiên, mỗi lần viếng thăm, giới trộm mộ đều trắng tay ra về.
Khi các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật, họ mới ngã ngửa trước bí mật của ngôi mộ và ca ngợi chủ nhân của ngôi mộ là một bậc thầy. Khi các nhà khảo cổ đào xuống, họ đã tìm thấy rất nhiều cát lún, và lớp cát cao tới 13 mét. Đây là một ngôi mộ cát điển hình. Chủ ngôi mộ khi còn sống đã đem toàn bộ số cát hong thật khô, cát nóng sẽ có tính lưu động cực mạnh.
Khi kẻ trộm ngôi mộ đào vào lớp này, bất kể chúng đào xuống như thế nào, chỉ trong thời gian ngắn lượng cát lưu động lớn sẽ lại lấp hết các lỗ mà chúng đào. Ngoài ra, lớp cát dày 13 mét cũng là một cái bẫy thiên nhiên nguy hiểm cho kẻ trộm mộ. Chỉ một chút mất cảnh giác, chúng có thể sa vào đầm cát không thể cứu chữa.
Đây cũng là chiến thắng duy nhất trong trò chơi giữa chủ mộ và giới đạo mộ trong ngàn năm qua. Mặc dù ngôi mộ đã bị trộm hơn 30 lần, nhưng các nhà khảo cổ vẫn tìm thấy hơn 1.000 mảnh di tích văn hóa Chu bên trong mật thất dưới cùng lăng mộ. Tất cả đều đứng yên, lặng nhìn những kẻ trộm mộ đầy khinh thường, đồng thời cũng là minh chứng về trí tuệ siêu phàm của những người thợ thủ công cổ đại.
Video đang HOT
Theo Danviet
Chuyện li kỳ về 10 bảo vật vô giá của Trung Quốc
Rác trong mắt bạn lại là một kho báu quý giá trong mắt người khác.Tại Trung Quốc, đã từng có vô số cổ vật, thậm chí là bảo vật Quốc gia lưu lạc trong dân gian, bị coi là rác, là phế vật.
Rác trong mắt bạn lại là một kho báu quý giá trong mắt người khác. Câu nói này rất phù hợp để sử dụng trong giới khảo cổ và bảo tồn di tích văn hóa. Tại Trung Quốc, đã từng có vô số cổ vật, thậm chí là bảo vật Quốc gia lưu lạc trong dân gian, bị coi là rác, là phế vật. Nhưng vì một sự trùng hợp may mắn nào đó, chúng đã được phát hiện, lưu giữ và bảo tồn.
Những bảo vật quốc gia dưới đây là điển hình ví dụ về một quá trình gian nan từ " phế phẩm" trở về trong viện bảo tàng.
Ngọc Trư Long thuộc văn hóa Hồng sơn
Vào tháng 8 năm 1971, Zhang Fengxiang (hán tự Trương Phong Tường), một người dân thuộc làng Sanxing Tala ở vùng Wengniute Nội Mông, bất ngờ phát hiện thấy một cái hang lấp miệng bằng các khối đá trong rừng cây.
Do tò mò, anh quyết định khám phá hang động. Ở dưới cùng của hang động, Fengxiang tìm thấy một thứ giống như một móc sắt, nhưng lúc đó anh không quan tâm tới đồ vật này. Sau khi trở về nhà, Fengxiang suy nghĩ cẩn thận, ngay cả khi nó là sắt vụn, anh cũng có thể bán lấy tiền. Vì vậy anh quay lại hang động và lấy "khối sắt vụn".
Tuy nhiên, Zhang Fengxiang đã không bán nó cho trạm thu gom phế thải mà đưa nó tới Trung tâm văn hóa Wengniute.
Vào thời điểm đó, văn hóa Hồng Sơn chưa được phát hiện. Các nhân viên của Trung tâm văn hóa cũng không biết miếng sắt đó là gì và Zhang Fengxiang cũng không biết nó có giá bao nhiêu. Một nhân viên ở đó đã chủ ý trả Fengxiang 30 nhân dân tệ để mua lại món đồ này. Về sau, mọi người mới biết rằng đây là một cổ vật quý giá thuộc thời kỳ đồ đá mới.
Minh Thanh thượng hà đồ thời Bắc Tống
Là một bức tranh được vẽ trong triều đại Bắc Tống, "Minh Thanh thượng hà đồ" có lịch sử gần một ngàn năm, đồng thời cũng trải qua một quá trình triền miên lưu lạc từ cung điện tới dân gian, rồi lại từ nhân gian vào cung điện. Năm 1911, Minh Thanh thượng hà đồ, vốn được cất giữ trong cung điện nhà Thanh, sau đó bị Phổ Nghi trộm đem tới Đông Bắc của Mãn Châu Quốc. Năm 1945, khi Nhật Bản thất bại, Mãn Châu Quốc bị hủy bỏ, Phổ Nghi tháo chạy. Một số lượng lớn các bảo vật bị phá hủy. Người ta cho rằng Minh Thanh thượng hà đồ đã bị đốt cháy trong chiến tranh.
Nhưng đáng ngạc nhiên là năm 1951, khi học giả văn hóa Dương Nhân Khải dọn dẹp bảo tàng văn hóa Đông Bắc, ông lại tìm thấy bức Minh Thanh thượng hà đồ này nằm trong một đám phế phẩm.
"Hàn thiết thiệp" của Vương Hy
Hàn thiết thiệp được coi là tác phẩm thư pháp thần thánh của nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn - Vương Hi. Bút pháp đơn giản mà cảnh ý lại vô cùng cao siêu. Bức thư pháp được Phổ Nghi đưa ra khỏi cung khoảng đầu thế kỷ trước, sau đó đã mất tích trong nhiều chục năm.
Vào những năm 1960, nhiều bức tranh dân gian đã được tập trung tại trạm thu gom rác, và hầu hết chúng được ném vào lò trộn và biến thành bột giấy. Là một thẩm định viên lĩnh vực di tích văn hóa, nhiệm vụ của Lưu Quang Khởi là giải cứu các cổ vật văn hóa quý giá khỏi những đám phế phẩm, khó như việc tìm kim trong đống cỏ khô.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên đã xảy ra, khi Lưu Quang Khởi đang ở trong một trạm thu gom phế thải ở đường Thái Hồ, khu Hà Tây, Thiên Tân, và phát hiện một ống cuộn đựng giấy có vẻ ngoài đặc biệt. Khi mở ra, ông Lưu đã vô cùng bất ngờ khi biết đó là 2 bức thư pháp nổi tiếng của Vương Hi. Một bức là "Hàn thiết thiệp" và bức còn lại là "Can âu thiệp", cả hai đều là báu vật thư pháp của Vương Hi đã bị Phổ Nghi đánh mất.
Bình đựng rượu Tứ dương phương tôn thời nhà Thương
Đây là một cổ vật vô cùng quý giá của thời nhà Thương. Chiếc bình đựng này là vật đại diện điển hình cho các sản phẩm hũ đựng thời kỳ triều Thương đến triều Chu, miệng rộng, cổ cao, hình tròn hoặc vuông, chạm khắc đủ 12 con giáp như dê, hổ, voi, ngựa, phượng hoàng... Sau xuân thu chiến quốc, loại hình hũ bình này ít thấy hơn.
Chiếc bình cổ này được một số nông dân ở Hồ Nam đào thấy vào năm 1938. Sau đó, nó được bán cho nhà buôn đồ cổ với giá 248 đồng tiền đại dương thời đó. Khi những nhà buôn này phá sản, chiếc bình cổ lại được chính phủ dân quốc tìm thấy và thu lại.
Trong Thế chiến II sau đó, Trường Sa bị quân đội Nhật ném bom, chiếc bình cổ cũng mất dấu vết. Mãi đến năm 1952, dưới sự truy tìm của sở văn hóa và di tích cổ vật, chiếc bình được tìm thấy ở góc của một nhà kho ngân hang trong tình trạng đã vỡ thành hàng chục mảnh. Sau gần một năm sửa chữa, chiếc bình đã khôi phục nguyên dạng và trở thành bảo vật quốc gia.
Bình đựng rượu Hà tôn thời Tây Chu
Cổ vật này là bằng chứng, là ghi chép sớm nhất có nhắc đến từ "Trung Quốc". Chiếc bình có khắc 12 dòng, bao gồm 122 chữ, trong đó có nhắc tới 4 chữ " Trạch từ Trung Quốc", ghi chép lại việc Thành vương kế thừa Võ vương, xây dựng lên Chu Thành ( nay là Lạc Dương).
Năm 1963, chiếc bình được một người nông dân tìm thấy trên một vách đá bẩn phía sau nhà. Người nông dân không biết chiếc bình này la gì, liền mang đặt trong nhà làm hũ đựng thực phẩm. Sau đó, người này đã bán chiếc bình dưới dạng sắt vụn với giá 30 nhân dân tệ! Sau đó, chiếc binh may mắn được một chuyên gia ở viện bảo tàng phát hiện thấy ở kho phế thải và thu mua lại.
Đồ đựng bằng đồng thời Tây Chu
Đây là một cổ vật bằng đồng thau thời Tây Chu đang được lưu giữ tại bảo tàng Bắc Kinh. Cổ vật này đã có hơn 3000 năm lịch sử, phía trong có khắc 198 chữ, ghi chép lại việc Mao Bách Ban dẹp loạn, được vua Chu khen thưởng. Cổ vật này được khai quật sớm nhất là vào thời Bắc Tống, và từ đó được đưa vào bộ sưu tập đồ cổ trong cung đình. Tuy nhiên, vào năm 1900, khi đồng minh 8 nước tiến vào Trung Quốc, nó đã biến mất trong chiến tranh.
Mãi đến hơn 70 năm sau, cổ vật này mới được các nhân viên làm việc tại khu di tích văn hóa ở Bắc Kinh tìm thấy trong một đống sắt vụn sắp được gửi đến lò nung, nơi mang lại cho kho báu quốc gia này một cuộc sống thứ hai!
Bình đựng khắc chữ thời nhà Thương
Chiếc bình khắc chữ thời nhà Thương này hiện đang được lưu giữ trong bảo tàng Hồ Nam. Nó được phát hiện vào năm 1962. Khi đó chuyên gia di tích văn hóa đang dạo qua các khu trung tâm thu hồi phế liệu để truy tìm những bảo vật quốc gia thì vô tình phát hiện ra chiếc bình này.
Đồng phế liệu từ trạm tái chế được thu hồi từ nhiều nơi khác nhau và tại thời điểm đó, các chuyên gia đã chú ý tới một mảnh đồng khá đặc biệt. Họ cảm thấy nó khác với những miếng đồng vụn khác nên đã có động lực tìm và khám phá thêm.
Sau đó, họ đã tìm thấy hơn 200 mảnh đồng trong đám sắt vụn đó, được chứa vào 27 chiếc túi. Và sau một thời gian lắp ghép sửa chữa, bảo vật này đã khôi phục lại nguyên trạng như chúng ta thấy ngày nay.
Bình rượu đồng thau thời chiến quốc
Năm 1967, tại một một trạm thu gom phế liệu ở Thỏa Đức, tỉnh Thiểm Tây, một nhân viên di tích văn hóa đã tinh mắt nhìn thấy một món đồ chuẩn bị được đưa vào lò nung với diện mạo "bất thường".
Sau khi qua giám định, được biết đây là một chiếc bình bằng đồng tinh xảo trong thời Chiến Quốc, là một bảo vật văn hóa hạng nhất quốc gia. Chiếc bình chim này có một giá trị văn hóa và nghệ thuật vô giá.
Đào ưng đỉnh thuộc thời kỳ đồ đá mới
Một ngày nọ vào năm 1957, Yên Tư Nghĩa, một nông dân ở thôn Thái Bình khi đang cày xới đất ở phía đông làng, đột nhiên thấy cầy đâm vào vật cứng. Ông nghĩ đó là một hòn đá. Nhưng khi ông tiếp tục đào, thì lại tìm thấy một món đồ bằng sứ có hình dạng con chim, mà ông không hề biết đây chính là cổ vật nổi tiếng sau này - đào ưng đỉnh ( đỉnh bằng sứ, hinh chim ưng). Ông đã không biết rằng mình đã đào được một báu vật quốc gia lúc đó, chỉ biết mang về nhà dùng làm âu đựng thịt gà.
Vào mùa thu năm 1958, một nhóm khảo cổ gồm các giáo viên khảo cổ và sinh viên của Khoa Lịch sử Đại học Bắc Kinh đã phát hiện ra Khu di tích Ngưỡng Thiệu tại làng Tuyền Hộ. Họ tiến hành điều tra khu vực lân cận đồng thời với việc tiến hành khai quật điểm di tích.
Thôn Thái Bình nằm ở phía Tây của làng Tuyền hộ. Khi Yên Tư Nghĩa nhìn thấy đội khảo cổ làm việc hăng say, ông đã chủ động kể lại chuyện mình đào được một món đồ sứ với nhân viên và đem Đào ưng đỉnh giao lại cho họ. Nhờ vậy mà bảo vật vô giá này mới được cả thế giới biết đến và hiện đang được lưu trữ trong bảo tàng quốc gia.
Cao tử qua thời Xuân Thu
Cao tử qua là vũ khí của thời kỳ xuân thu chiến quốc, là một bảo vật văn hóa hạng nhất, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Nhà nước ở Sơn Đông, Trung Quốc. Cổ vật này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1970, khi một cậu bé nông thôn coi la sắt vụn và đem bán với giá 5,97 nhân dân tệ. Sau đó, nó lưu lạc một thời gianvà được sở văn hóa và di tích lịch sử phát hiện và thu hồi. Cho đến 16 năm sau, cậu bé nông thôn người phát hiện ra Cao tử qua đã trưởng thành. Một lần ông tới viện bảo tàng và nhận ra miếng sắt vụn ông bán năm nào đã trở thành báu vật quốc gia, được triển lãm toàn quốc. Ông liền kể cho các nhân viên ở bảo tàng câu chuyện ngày bé khi ông tìm thấy Cao tử qua.
Theo Danviet
Nàng "Bạch Tuyết ngoài đời" bị mù khi còn rất trẻ, mất trong cảnh cô độc? Ít ai biết rằng, một trong những câu chuyện cổ tích nổi tiếng nhất thế giới lại đươc dựa trên cuộc đời có thật của một nhân vật lịch sử. Nàng Bạch Tuyết và 7 chú lùn mà chúng ta vẫn quen thuộc qua sách truyện và phim ảnh, thực chất đều được dựa trên những hình mẫu có thật (Ảnh: Disney) Ngày...