Truyền thống nhận thua trong bầu cử tổng thống Mỹ
Nhận thua và hòa giải với đối thủ là truyền thống trong bầu cử tổng thống Mỹ, nhưng không phải lúc nào quá trình này cũng diễn ra êm đẹp.
Việc chuyển giao quyền lực trong hòa bình tại Mỹ bắt đầu từ năm 1800, khi John Adams, tổng thống thứ hai của đất nước, trở thành người đầu tiên thất bại trong nỗ lực tái đắc cử và lặng lẽ rời Washington vào sáng sớm, tránh tham dự lễ nhậm chức của người kế nhiệm Thomas Jefferson.
Theo John Vile, trưởng khoa Khoa học Chính trị tại Đại học Middle Tennessee State, Mỹ, một số ứng viên tổng thống trong thời kỳ đầu của đất nước đã gửi thư chúc mừng đến đối thủ. Tuy nhiên, sự nhượng bộ chính thức không phải là truyền thống cho tới năm 1896, khi ứng viên Dân chủ William Jennings Bryan gửi cho đối thủ đảng Cộng hòa William McKinley một bức điện chúc mừng.
“Chúng tôi thuận theo người dân Mỹ và ý chí của họ chính là pháp luật”, Bryan viết trong bức điện, sau khi nhận thấy thất bại là điều không thể tránh khỏi.
Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush (trái) và ứng viên Dân chủ Al Gore trong cuộc tranh luận năm 2000. Ảnh: Reuters.
Bức điện này là khởi đầu cho truyền thống hòa giải giữa các đối thủ sau mùa bầu cử căng thẳng . Bản thân Bryan tỏ ra ngạc nhiên, bởi ông coi đây đơn giản là hành động lịch sự nên làm. “Tôi không biết tại sao việc trao đổi thông điệp lại được coi là phi thường. Chúng tôi không đấu đá nhau. Chúng tôi đại diện cho các tư tưởng chính trị khác nhau mà mọi người sẽ lựa chọn”, ông viết trong hồi ký.
Kể từ đó, các ứng viên thua cuộc thường thừa nhận thất bại trước đối thủ, ngay cả những tổng thống đương nhiệm, như hồi năm 1912. Tổng thống Cộng hòa William Howard Taft khi đó đã nhận thua trước ứng viên Dân chủ Woodrow Wilson vào 23h đêm bầu cử. Năm 1932, Herbert Hoover, tổng thống đương nhiệm thuộc đảng Cộng hòa khi đó, cũng gửi điện chúc mừng đối thủ Dân chủ Franklin Roosevelt một ngày sau thất bại.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm nay, mặc dù các hãng truyền thông nhận định ứng viên Dân chủ Joe Biden đã hội đủ số phiếu đại cử tri để trở thành tổng thống đắc cử, Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố có tình trạng gian lận phiếu bầu, không coi đây là một kết quả công bằng, từ chối nhận thua và cũng không cam kết chuyển giao quyền lực trong hòa bình.
Lịch sử Mỹ chưa ghi nhận ứng viên tổng thống nào từ chối nhận thua sau khi toàn bộ phiếu bầu đã được kiểm đếm và những thách thức pháp lý được giải quyết. Tuy nhiên, không phải ứng viên thua cuộc nào cũng cư xử lịch sự, hoặc nhận thua ngay lập tức.
Năm 1916, hai tuần sau khi kết quả bầu cử được công bố, ứng viên Cộng hòa Charles Evans Hughes mới chúc mừng tổng thống Dân chủ đương nhiệm Woodrow Wilson sau một cuộc đua sít sao đến mức mất hai ngày để kiểm phiếu.
Năm 1944, ứng viên Cộng hòa Thomas Dewey thừa nhận thất bại trước Roosevelt trên sóng phát thanh vào sáng sau ngày bầu cử, nhưng không gọi điện hay gửi bức điện nào cho đối thủ. Nhà sử học Scott Farris cho biết Roosevelt đã tức giận vì điều này đến mức gửi cho Dewey một bức điện với nội dung: “Tôi cảm ơn vì phát biểu của ông, điều mà tôi vừa nghe trên sóng phát thanh vài phút trước”.
Barry Goldwater, một ứng viên Cộng hòa khác, cũng từng không ngay lập tức nhận thua trước tổng thống Dân chủ Lyndon Johnson, mà một ngày sau cuộc bầu cử năm 1964 mới lên tiếng. Trong khi đó, kết quả bầu cử đã rõ ràng từ đêm trước và hầu hết người dân dự đoán Goldwater sẽ nhanh chóng nhận thua.
Trong thông điệp gửi tới Johnson, Goldwater cam kết hỗ trợ nhằm đạt được mục tiêu “một nước Mỹ ngày càng phát triển và tốt đẹp hơn”, nhưng đồng thời nhắc nhở đối thủ rằng đảng Cộng hòa vẫn sẽ là “đảng đối lập”.
Những cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi nhất trong lịch sử Mỹ cũng kết thúc bằng việc thừa nhận thất bại . Năm 1860, ứng viên Dân chủ Stephen Douglas nhận thức được rằng cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ của tổng thống đắc cử Cộng hòa Abraham Lincoln sẽ “chọc giận” người dân miền nam, có nguy cơ dẫn đến một cuộc nổi dậy.
Thay vì khơi dậy sự giận dữ, Douglas tới thăm các bang miền nam để kêu gọi đoàn kết, nói với những người ủng hộ ông rằng “Lincoln là tổng thống tiếp theo”, nhưng cuối cùng 11 bang đã ly khai trước lễ nhậm chức của Lincoln, tạo tiền đề cho cuộc Nội chiến.
Những cuộc bầu cử kéo dài và gây tranh cãi trong lịch sử Mỹ. Video: Washington Post.
Năm 1876, ứng viên Dân chủ Samuel Tilden tuy chiếm đa số phiếu phổ thông vẫn thất bại trước đối thủ Rutherford Hayes tại một trong những cuộc bầu cử Mỹ gây tranh cãi nhất mọi thời đại. Giữa những cáo buộc gian lận cử tri, một ủy ban lưỡng đảng giải quyết vấn đề bằng cách trao chiến thắng cho Hayes, để đổi lấy cam kết quân đội liên bang sẽ rút khỏi miền nam, giúp chấm dứt Thời kỳ Tái thiết kéo dài 12 năm hậu Nội chiến và đưa cựu Liên minh miền Nam tái gia nhập liên bang.
Trong bài phát biểu vào tháng 6/1877, Tilden cho rằng thất bại của ông là kết quả của sự lũng đoạn và gian lận, nhưng kêu gọi người ủng hộ nên lạc quan. “Nền Cộng hòa sẽ vẫn tồn tại. Các thể chế của cha ông chúng ta không khép lại trong tủi hổ. Chủ quyền của người dân sẽ được cứu rỗi khỏi hiểm họa này và tái thiết lập”, ông nói.
Cuộc bầu cử gây tranh cãi gần đây nhất là hồi năm 2000 giữa ứng viên Dân chủ Al Gore và cựu tổng thống George W. Bush, kéo dài tới 36 ngày kiểm phiếu rồi kiểm lại phiếu, dẫn đến việc Tòa án Tối cao Mỹ lần đầu tiên can thiệp vào một cuộc bầu cử tổng thống và đưa ra phán quyết khép lại cánh cửa chiến thắng dành cho Gore. Ứng viên Dân chủ quyết định nhận thua, bởi không muốn đất nước tiếp tục lâm vào cảnh chia rẽ, đấu đá đảng phái.
Do việc nhận thua không phải một phần chính thức của quá trình bầu cử, những ứng viên từ chối thừa nhận thất bại như Trump sẽ không phải chịu hệ quả pháp lý nào. Bất chấp việc một ứng viên nhất quyết không nhượng bộ, cuộc bầu cử vẫn sẽ đến hồi kết theo đúng lịch trình , với điểm dừng cuối cùng là sự xác nhận kết quả chính thức từ quốc hội.
Phản ứng khác biệt giữa Trump và những người tiền nhiệm khi gặp bất lợi trong bầu cử. Video: Guardian.
Năm nay, các bang phải giải quyết tất cả tranh chấp trước ngày 8/12 để đại cử tri đoàn có thể họp lại, tiến hành bỏ phiếu tại những địa điểm do nghị viện bang chỉ định vào ngày 14/12. Nếu ứng viên thua cuộc tiếp tục không đồng ý với kết quả do quốc hội xác nhận, Mỹ sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng hiến pháp “vô tiền khoáng hậu”.
Chuyên gia Vile cho rằng nhận thua là hành động mà các ứng viên tổng thống nên làm, dù không bị ràng buộc về mặt pháp lý, bởi sự tôn trọng các chuẩn mực trong bầu cử đã giúp củng cố nền dân chủ của Mỹ, ngay cả trong những tình huống hỗn loạn và chia rẽ nhất.
“Nước Mỹ gắn kết thành một khối nhờ quan điểm rằng chúng ta thống nhất với nhau dựa trên một số nguyên tắc tuyệt vời nhất định, và những điểm tương đồng có tính ràng buộc cao hơn so với những khác biệt của chúng ta”, Vile nêu ý kiến.
Nhóm Biden chưa được ký thư chuyển giao quyền lực
Giám đốc Cơ quan Dịch vụ Công quyết vẫn chưa ký thư chuyển giao quyền lực cho Joe Biden, khiến quá trình này có thể bị gián đoạn.
Giám đốc Cơ quan Dịch vụ Công quyết (GSA) Emily Murphy, người được chính quyền Trump bổ nhiệm, tính đến tối 8/11, tức 36 giờ sau khi truyền thông xướng tên Joe Biden là người chiến thắng, vẫn chưa ký bất cứ giấy tờ nào chuyển giao quyền lực cho nhóm của ứng viên Dân chủ.
GSA là một cơ quan cấp thấp phụ trách các tòa nhà liên bang, có nhiệm vụ ký các thủ tục giấy tờ chính thức sau khi có tổng thống đắc cử, để chuyển hàng triệu USD, trao quyền tiếp cận cho các quan chức chính phủ, chuyển giao các văn phòng và thiết bị cho nhóm chiến thắng. Động thái này giống như tuyên bố chính thức từ chính phủ liên bang, bên cạnh các phương tiện truyền thông, về tân tổng thống.
Việc lãnh đạo GSA Murphy hành động chần chừ có thể dẫn tới lần chuyển giao quyền lực tổng thống chậm trễ đầu tiên trong lịch sử hiện đại nước Mỹ, ngoại trừ năm 2000, khi Tòa án Tối cao quyết định kiểm lại phiếu trong "cuộc đua" giữa Al Gore và George W. Bush.
"Quá trình xác minh đang diễn ra và lãnh đạo của chúng tôi vẫn tiếp tục tuân thủ, thực hiện tất cả các yêu cầu theo luật pháp", Pamela Pennington, phát ngôn viên của GSA, cho biết trong một email hôm 8/11.
Tổng thống đắc cử Joe Biden (phải) và Phó tổng thống đắc cử Kamala Harris trong buổi lễ ăn mừng ở Wilmington, Delaware, hôm 7/11. Ảnh: AFP.
Tuyên bố từ GSA khiến nhiều chuyên gia tự hỏi liệu khi nào Nhà Trắng mới chuyển giao quyền lực cho chính quyền tiếp theo, trong khi Trump dường như đã hết hy vọng lật ngược tình thế và chỉ còn 74 ngày nữa là tới lễ nhậm chức hôm 20/1 của Biden.
Nhiều quan chức cũng đã lên tiếng chỉ trích lãnh đạo GSA Murphy. "Hành động của bà ấy bây giờ đáng bị lên án. Bà ấy rõ ràng đang phục tùng theo ý muốn của cá nhân Tổng thống và điều này rõ ràng gây cản trở tới quá trình chuyển giao quyền lực một cách có trật tự", Hạ nghị sĩ Gerald E. Connolly, người lãnh đạo ban giám sát Hạ viện về các hoạt động liên bang, cho biết.
"Cuộc bầu cử đã gọi tên Joe Biden, chúng tôi mong muốn GSA nhanh chóng xác nhận ông và Kamala Harris là Tổng thống và Phó tổng thống đắc cử. An ninh quốc gia và lợi ích kinh tế Mỹ phụ thuộc vào việc chính phủ liên bang thể hiện rõ ràng rằng họ tôn trọng ý chí của người dân cũng như hỗ trợ chuyển giao quyền lực một cách suôn sẻ và hòa bình", phát ngôn viên của Biden nói.
Các hãng tin Mỹ đã xướng tên Biden là tổng thống Mỹ thứ 46 khi giành được 290 phiếu đại cử tri, song Trump không chấp nhận kết quả này, cho biết "bầu cử còn lâu mới kết thúc" và chiến dịch tranh cử của ông sẽ khởi kiện vào ngày 9/11.
Bất chấp các cáo buộc gian lận bầu cử từ Tổng thống Trump, Biden vẫn tiếp tục lên kế hoạch nhanh chóng ký hàng loạt sắc lệnh hành pháp sau khi nhậm chức nhằm thay đổi các ưu tiên của đất nước, trong đó có các chính sách ứng phó với Covid-19.
So sánh phản ứng của Trump với các ứng viên tổng thống Mỹ khi gặp bất lợi. Video: Guardian.
5 tuần nước Mỹ bế tắc hậu bầu cử tổng thống năm 2000 Nếu Trump yêu cầu Tòa án Tối cao giải quyết tranh chấp kiểm phiếu với Biden, đó sẽ là lần thứ hai trong lịch sử tòa Mỹ định đoạt ghế tổng thống. Vào Ngày bầu cử tổng thống Mỹ 7/11/2000, các cuộc thăm dò cho thấy ứng viên đảng Cộng hòa George W. Bush, thống đốc bang Texas, dẫn trước ứng viên đảng...