Trường Sa 1988: Trung Quốc xâm lược, đâu có anh hùng gì mà khoe khoang!
Các sĩ quan, tướng lĩnh Việt Nam phản bác trò tuyên truyền xuyên tạc của Trung Quốc về cái mà họ gọi là “chiến thắng oanh liệt” ở Trường Sa năm 1988.
Để che giấu sự thật về hành vi xâm lược và sự d.ã ma.n khi tà.n sá.t những người lính Việt Nam ở Trường Sa năm 1988, báo Trung Quốc tìm mọi thủ đoạn để vu khống cho Việt Nam chiếm đảo.
Luận điệu đó đã bị các tướng lĩnh Việt Nam, chuyên gia nước ngoài và các nhâ.n chứn.g tham gia trực tiếp vào sự kiện bi tráng này vạc.h trầ.n trong bài viết dưới đây.
Pháo trên tàu 531 – một trong những con tàu hung hăng nhất của Trung Quốc trong Hải chiến Trường Sa
Trung Quốc vu cáo “Việt Nam tăng tốc chiếm đảo”
Theo một bài báo đăng trên Chinanews (Trung Quốc), Tham mưu trưởng Hạm đội Nam Hải nước này hồi năm 1988 là Lý Thụ Văn đã vu khống Quân đội Việt Nam khi đó “liên tục mở rộng hoạt động cướp đảo, đá ở quần đảo Trường Sa”.
Tờ này còn trơ trẽn nói rằng, Việt Nam “nhòm ngó” Đá Gạc Ma (trong khi đó là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Việt Nam), và rằng trong Hải chiến Trường Sa 1988, Hải quân Trung Quốc chỉ “đáp trả” hành động từ phía Việt Nam.
Cũng với luận điệu này, một bài báo trên trang Sina, khi viết về Hải chiến Trường Sa 1988 thì trắng trợn vu cáo Việt Nam “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Trung Quốc, đ.e dọ.a quyền lợi trên biển của Trung Quốc”.
Trong cuộc trao đổi với chúng tôi, Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm – nguyên Giám đốc Học viện Hải quân, Bộ Quốc phòng đã bày tỏ sự phẫn nộ đối với hành vi đổi trắng thay đen, xuyên tạc sự thật này của truyền thông Trung Quốc.
Ông khẳng định, việc Trung Quốc nói Quân đội Việt Nam “liên tục mở rộng hoạt động cướp đảo, đá ở quần đảo Trường Sa” là hoàn toàn sai sự thật.
“Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Việt Nam quản lý Trường Sa từ lâu rồi chứ không phải năm 1988 mới quản lý”.
“Cho đến năm 1988, Trung Quốc chưa hề xuất hiện tại quần đảo Trường Sa mà họ mới chỉ cướp được Hoàng Sa của VN vào các năm 1956 và 1974.
Sau khi họ chiếm được Hoàng Sa, họ muốn chiếm Trường Sa nên đã gây ra những áp lực bằng những xung đột ở trên biển” – tướng Lâm cho biết.
Carlyle A. Thayer, giáo sư danh dự Đại học NSW (Australia), chuyên gia về Đông Nam Á cũng khẳng định, hành động của Trung Quốc tấ.n côn.g và tà.n sá.t 64 người lính Việt Nam tại Trường Sa năm 1988 “phải bị coi là một hành vi xâm lược trắng trợn”.
Ông Thayer cho biết, trước thời điểm đó, “không hề có sự hiện diện của Trung Quốc tại đây. Sau trận hải chiến, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng các rạn san hô và bãi ngầm khác trong quần đảo Trường Sa, một hành động mà họ tiếp tục cho đến ngày nay”.
GS Thayer khẳng định, trong thực tế, Trung Quốc đã chiếm “nhà của người khác”.
Video đang HOT
“Chúng ta đã thắng khi HQ505 tạo nên dấu mốc thời đại”
Đại tá Vũ Huy Lễ – Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Một luận điệu xuyên tạc, bô.i nh.ọ khác của truyền thông Trung Quốc, trong đó có trang Sina là dùng lời lẽ xảo trá để ca ngợi cuộc xâm lược của họ ở Trường Sa là “chiến thắng oanh liệt trước lực lượng tinh nhuệ của Hải quân Việt Nam”.
Và để tô vẽ cho cái mà họ gọi là “chiến công” này, báo Trung Quốc rêu rao rằng tàu vận tải HQ505 là “tàu chiến quốc bảo của Việt Nam” để tỏ thái độ đắc ý khi con tàu này “bại trận chỉ sau vài hiệp đấu” (theo cách tuyên truyền ngang ngược của Trung Quốc).
Là người từng nhiều năm trực tiếp phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân, hiểu rất rõ tình hình khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Gạc Ma năm 1988, tướng Lê Kế Lâm cho rằng, cách tuyên truyền hống hách này chỉ là trò lên dây cót tinh thần của Trung Quốc.
Theo tướng Lâm, “Việt Nam tại thời điểm đó chỉ có 3 tàu vận tải làm nhiệm vụ vận chuyển vật liệu là chính. Những người lính công binh xây dựng đảo thì hầu như không trang bị vũ khí.
Cũng theo tướng Lâm thì khi ấy, “Trung Quốc không hề phải đối diện với bất cứ tàu chiến cũng như máy bay chiến đấu nào của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.”
“Như vậy thì đâu có anh hùng gì mà khoe khoang là chiến thắng oanh liệt trước Hải quân Việt Nam. Đó thực sự là những lời láo lếu”, tướng Lâm bức xúc nói.
Nói về việc Trung Quốc khoe đán.h chìm tàu, tà.n sá.t các chiến sĩ Việt Nam, ngay cả khi họ đã rơi xuống biển, không còn khả năng tự vệ, tướng Lâm phẫn nộ “Hành động thả.m sá.t đó thể hiện sự hiếu chiến, vô nhân đạo”.
“Tôi cũng không hiểu sao, hành động d.ã ma.n, vô nhân đạo như vậy mà họ cũng có thể mang ra để khoe khoang cho quân uy và sự hùng mạnh của Trung Quốc. Thật vô liêm sỉ”.
Đại tá Vũ Huy Lễ, người trực tiếp chỉ huy tàu HQ505, con tàu mà phía Trung Quốc rêu rao là “tàu chiến quốc bảo” của Việt Nam cũng tỏ ra rất bức xúc với sự xuyên tạc lịch sử này.
“Tàu chúng tôi là tàu vận tải, chỉ được trang bị sún.g bộ binh rất đơn giản để đối phó với quân đổ bộ chứ đâu phải là tàu chiến.
Quân Trung Quốc x.ả sún.g vào những tàu không được trang bị vũ khí hoặc vũ khí rất đơn giản như vậy thì sao có thể nói là chiến thắng được Hải quân Nhân dân Việt Nam!” – ông Lễ nói thêm.
Ông Trần Văn Lịch – cựu chiến sĩ tàu C41, đơn vị 2 lần anh hùng thuộc Lữ đoàn 125 – phát biểu tại cuộc Họp mặt Hội truyền thống tàu HQ505 năm nay.
Ông Trần Văn Lịch – cựu chiến sĩ tàu C41, đơn vị 2 lần anh hùng thuộc Lữ đoàn 125 Hải quân nhận định, dù thiệt hại của tàu HQ505 trong Hải chiến Trường Sa là rất nặng nề, nhưng việc con tàu giữ vững và khẳng định chủ quyền Đá Cô Lin là thắng lợi không thể phủ nhận.
“Quyết định này (lao tàu HQ505 lên Đá Cô Lin) là một quyết định vô cùng thông minh, sáng suốt.
Cho nên con tàu này và thời điểm này đã mang ý nghĩa lịch sử và thời đại, chứ không đơn thuần là ý nghĩa chiến lược nữa. Tàu HQ505 có thể ví như những chiếc xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập, giải phóng miền Nam năm 1975.
Hành động của Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã khẳng định được chủ quyền của Việt Nam, mà như vậy nghĩa là chúng ta đã thắng” – ông Lịch nói.
Ông Lịch cũng cho rằng, HQ505 đã trở thành một biểu tượng và “nên được đưa vào trang sách của học sinh, để những thế hệ tiếp theo tiếp tục sự nghiệp bảo vệ giang sơn Tổ quốc Việt Nam”.
Theo Trí Thức Trẻ
Giai đoạn 1945-1975, Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo như thế nào?
Dù trong hoàn cảnh khó khăn nào, người Việt Nam chưa bao giờ ngừng thực thi chủ quyền với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do vậy, chúng ta có thể khẳng định: Việt Nam là nước đầu tiên chiếm hữu, thực thi chủ quyền hòa bình, liên tục đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Dưới đây là thông tin chi tiết về quá trình thực thi chủ quyền, theo sách "100 câu hỏi đáp về biển đảo dành cho tuổ.i trẻ Việt Nam" của Ban Tuyên giáo Trung ương.
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Pa-tơ-nốt 1884, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp dựng lên chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1949, Tổ chức khí tượng thế giới (OMM: Organisation Mondiale de Meteorologie) đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số hiệu 48860, Trạm Ba Bình số hiệu 48419.
Trạm khí tượng ở Hoàng Sa do Pháp xây dựng, được giữ gìn hoạt động trong giai đoạn này (ảnh tư liệu).
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp ký với Bảo Đại Hiệp định Hạ Long trao trả độc lập cho chính phủ Bảo Đại, tháng 4, Hoàng thân Bửu Lộc, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng, ngày 5 tháng 9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận, đã bác bỏ đề nghị của ngoại trưởng Gromưco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam.
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: "et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nó droits sur les iles de Spratley et de Paracel qui de tout temps ont fait partie du Vietnam". Không một đại biểu nào trong Hội nghị có bình luận gì về tuyên bố này. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7 của Hòa ước đã ghi rõ: "Nhật Bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và Sprathly" (khoản f).
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết đã công nhận một nước có nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của Hiệp định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Giới tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.
Tháng 4 năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, đã ra tiếp quản nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc và Phi-líp-pin tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối: Ngày 24 tháng 5 và ngày 8 tháng 6 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa "luôn luôn là một phần của Việt Nam" và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
Ngày 22 tháng 8 năm 1956, Tàu HQ04 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ quyền, dựng cờ, bảo vệ quần đảo trước hành động xâm chiếm trái phép, vi phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Phi-líp-pin.
Ngày 20 tháng 10 năm 1956, bằng Sắc lệnh 143/VN, Việt Nam Cộng hòa đã đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.
Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa đã có quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ hành chính hạng 1 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa; ngày 27 tháng 6 năm 1961, bổ nhiệm ông Hoàng Yêm giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Việt Nam Cộng hòa sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Ngày 11 tháng 4 năm 1967, Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 809-NĐ-DUHC cử ông Trần Chuân giữ chức phái viên hành chính xã Định Hải (Hoàng Sa), quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ngày 21 tháng 10 năm 1969, bằng Nghị định số 709-BNV-HCĐP-26 của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ký Nghị định 420-BNV-HCĐP/26 sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Từ 17 tháng 01 đến 20 tháng 01 năm 1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đán.h chiếm nhóm phía Tây, quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sỹ đã anh dũng hy sinh, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không cản phá được hành động xâm lược của Trung Quốc. Tuy nhiên trên mặt trận ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liên Hợp quốc và cộng đồng quốc tế: ngày 19 tháng 01 năm 1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ra Tuyên cáo kêu gọi các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình lên án hành động xâm lược thô bạo của Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiện này:
- Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.
- Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.
- Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
Ngày 01 tháng 02 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tăng cường lực lượng đóng giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa trong tình hình Trung Quốc tăng cường sức mạnh tiến hành xâm chiếm lãnh thổ mà theo nhận định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: "Trung cộng sẽ đán.h Trường Sa và xâm chiếm bằng vũ lực giống như Hoàng Sa, có sự tiếp tay hoặc làm ngơ của Mỹ".
Ngày 02 tháng 7 năm 1974, tại Hội nghị Luật biển lần thứ 3 của Liên Hợp quốc tại Caracas, đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng t.ố cá.o Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này là không tranh chấp và không thể chuyển nhượng.
Ngày 14 tháng 02 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Infonet
Quân đội ta thu được bao nhiêu vũ khí sau 1975? Sau ngày giải phóng (30/4), quân đội ta đã thu giữ được nhiều xe, pháo, máy bay, tàu chiến chiến lợi phẩm từ Quân đội Sài Gòn. Pháo binh Việt Nam 1975 mạnh cỡ nào?Su-30, UH-1A Không quân Việt Nam diễn tập bắ.n, ném. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ đã viện trợ hàng nghìn xe tăng, máy bay, pháo, sún.g...