Trước sinh nhật đầu tiên, nếu bé không có bất kì cử chỉ nào dưới đây, có thể đó là dấu hiệu sớm của chứng tự kỷ
Ở mỗi độ tuổ.i trẻ lại có những mốc phát triển khác nhau, điều quan trọng đó là cha mẹ hãy quan sát đều đặn sự phát triển của các con để kịp thời phát hiện những điều không bình thường.
Cha mẹ thường mong đợi khi con mình ở giai đoạn sơ sinh, chập chững biết đi đều đạt được các mốc phát triển quan trọng như mỉm cười, lẫy, ngồi dậy, bước những bước đầu tiên, đếm đến mười, buộc dây giày…
Việc so sánh sự tăng trưởng và phát triển của con mình so với những đứ.a tr.ẻ khác không được khuyến khích bởi thời điểm trẻ đạt được phần lớn các cột mốc trên sẽ trải dài trên một quãng rộng. Ví dụ, hầu hết tr.ẻ e.m bắt đầu biết đi vững trong khoảng thời gian từ 11 đến 15 tháng. Nếu bạn có một nhóm trẻ 12 tháng tuổ.i, bạn sẽ nhận thấy, một số trẻ đã đi tốt, nhiều trẻ khác vẫn phải bám vào mọi thứ trong lúc bước đi quanh nhà. Nhưng tất cả đều có thể được đán.h giá là phát triển bình thường.
Và thậm chí vượt ra ngoài ngưỡng phát triển bình thường đó, luôn có những trường hợp phát triển sớm và muộn. Nếu con bạn không đạt được các mốc phát triển đúng thời điểm, thì tốt nhất bạn nên nói chuyện với bác sĩ nhi khoa để xem liệu có xảy ra vấn đề gì với sự phát triển của trẻ hay không?
1. Mỉm cười
Mỉm cười là một cột mốc phát triển mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được khi 6, 7 hoặc 8 tuần tuổ.i.
Thực tế, có 2 loại nụ cười ở trẻ sơ sinh:
- Nụ cười tự phát hoặc gần như phản xạ có thể xuất hiện sớm trong thời kỳ sơ sinh.
- Nụ cười xã giao xuất hiện để phản ứng lại điều gì đó, như khi bạn hát hoặc nói chuyện với bé.
Nụ cười xã giao là một cột mốc phát triển mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được khi 1-2 tháng tuổ.i. Không có nụ cười xã giao trước 6 tháng tuổ.i thường được coi là dấu hiệu sớm của chứng tự kỷ.
Nụ cười tự nhiên có thể xuất hiện sớm nhất vào những ngày đầu tiên trong đời bé và cứ thế duy trì cho đến khi bé được 10 tuần tuổ.i.
Cười thành tiếng là một cột mốc phát triển mà nhiều em bé đạt được khi 14-18 tuần tuổ.i.
3. Lẫy
Khi trẻ được 6 tháng tuổ.i, hầu hết các bé sẽ đều biết lẫy (Ảnh minh họa).
Lẫy là một cột mốc phát triển mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được tầm 6 tháng tuổ.i. Đây thường là một trong những cột mốc vận động lớn đầu tiên mà cha mẹ mong đợi.
Theo những khuyến nghị được đưa ra vào năm 1996 tại Mỹ, không nên để trẻ nằm sấp nhiều do lo ngại nguy cơ đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS). Kết quả một số trẻ biết lẫy muộn hơn một chút so với trước đây. Nó cũng có thể gây ra một số chậm trễ trong việc chọn các cột mốc phát triển khác ở trẻ, bao gồm biết ngồi và biết bò.
Video đang HOT
Rất may là trước khi trẻ chập chững biết đi, những sự chậm trễ này dường như biến mất dù bé ngủ kiểu nào đi nữa. Vì vậy nên mô tả những em bé như vậy có “độ trễ” trong sự phát triển, chứ không phải là chậm trễ thực sự sẽ thích hợp hơn. Nếu bạn muốn tránh độ trễ này, bạn có thể thử cho con nằm úp bụng một số lần trong ngày.
Phần lớn trẻ sơ sinh biết lẫy khi 2-6 tháng tuổ.i, đầu tiên là từ nằm ngửa đến nằm sấp, sau đó từ nằm sấp chuyển sang ngửa.
4. Ngồi dậy
Ngồi là một cột mốc phát triển mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được khi 5,5-7 tháng tuổ.i. Đây cũng là một trong những cột mốc quan trọng của sự vận động mà cha mẹ mong đợi.
Giống với lẫy, thời điểm biết ngồi có thể chậm lại một chút nếu con bạn không dành nhiều thời gian nằm sấp. Tuy nhiên, hầu hết trẻ sơ sinh ngồi dậy mà không có sự hỗ trợ khi chúng ở trong khoảng từ 5,5-7 tháng tuổ.i.
5. Đứng lên được nhờ trợ giúp
Đứng lên được nhờ trợ giúp là một cột mốc phát triển mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được khi 6,5-9 tháng tuổ.i. Hãy nhớ rằng ngay cả khi trẻ sơ sinh có thể đứng được với sự hỗ trợ, chúng thường không thể tự mình đứng lên cho đến khi 8-10 tháng tuổ.i.
6. Bước đi đầu tiên
Bước những bước đầu tiên là một cột mốc phát triển mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được từ 11 đến 15 tháng tuổ.i.
Điều gì khiến trẻ có bước nhảy vọt từ việc phải bám vào mọi thứ để đi lại xung quanh đến tự mình bước đi? Đó là sự can đảm, khả năng thăng bằng, hay chỉ là tình cờ? Dù lý do là gì đi nữa, hầu hết các bé bắt đầu tự đi lại tốt trong khoảng từ 11 đến 15 tháng tuổ.i.
7. Vẫy tay tạm biệt
Vẫy tay tạm biệt là một cột mốc phát triển mà hầu hết các bé có thể đạt được khi 7-14 tháng tuổ.i. Mặc dù vẫy tay chào và tạm biệt có vẻ chỉ là một điều thú vị để dạy bé, đây thực sự là một cột mốc phát triển quan trọng. Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng nếu con bạn không có bất kỳ cử chỉ nào khi bé được 12 tháng tuổ.i, đó có thể là dấu hiệu sớm của chứng tự kỷ hoặc một rối loạn phát triển khác. Những cử chỉ này bao gồm vẫy tay, chỉ tay và với tay lấy đồ vật.
8. Nắm tay kiểu gọng kìm
Dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ nắm chặt lại (kiểu gọng kìm) là một cột mốc phát triển mà hầu hết các bé đạt được tầm 7-11 tháng tuổ.i. Bạn có thể nhận ra cách nắm tay này khi bé cầm thìa.
Trước khi biết nắm tay kiểu gọng kìm vào khoảng 7 đến 11 tháng tuổ.i, trẻ sơ sinh thường nhặt đồ vật lên bằng kiểu nắm tay chưa thật vững.
9. Chơi đóng vai
Chơi đóng vai hoặc bắt chước các hoạt động là cột mốc phát triển mà hầu hết các bé sơ đạt được khi 1–18 tháng tuổ.i (Ảnh minh họa).
Chơi đóng vai hoặc bắt chước các hoạt động, là một cột mốc phát triển quan trọng mà hầu hết trẻ sơ sinh đạt được tầm 10-18 tháng tuổ.i. Chơi đóng vai thường liên quan đến những việc như bé coi chuột máy tính là điện thoại hay bắt chước một hoạt động mà trẻ mới biết đi thấy cha mẹ làm đi làm lại nhiều lần.
Trẻ mới biết đi cũng sẽ bắt đầu bắt chước thực hiện nhiều hơn các công việc gia đình hàng ngày của cha mẹ, chẳng hạn như phủi bụi và quét dọn, vào khoảng 18 tháng tuổ.i.
Chơi đóng vai sẽ trở nên phức tạp hơn khi con bạn lớn lên; ví dụ, con đóng vai bác sĩ, lính cứu hỏa hoặc tài xế.
10. Nói những từ đầu tiên
Bạn có thể nghe những từ đầu tiên của trẻ, thường là mama hoặc dada, khi bé khoảng 1 tuổ.i.
Ngay trước khi thốt lên những từ đầu tiên, trẻ nên nói được những âm tiết đơn và thường xuyên lặp lại những tiếng bập bẹ. Hầu hết các chuyên gia nhìn nhận việc trẻ không bập bẹ trước 12 tháng tuổ.i là dấu hiệu sớm của chứng tự kỷ hoặc một rối loạn phát triển khác.
Phần lớn trẻ sơ sinh đều bập bẹ tốt trước sinh nhật đầu đời. Trên thực tế, bạn có thể nghe những từ đầu tiên của bé, thường là mama hoặc dada, khi bé được 6 đến 9 tháng tuổ.i. Mặc dù vậy, con bạn sẽ không sử dụng những từ đó cụ thể hơn hoặc chính xác cho đến khi bé được 7 đến 13 tháng.
Theo helino
Mặt trái của phương pháp luyện ngủ Cry It Out khiến nhiều cha mẹ giật mình
Ngay cả cha đẻ của phương pháp luyện ngủ Cry It Out cũng thừa nhận hối tiếc về một số lời khuyên đã đưa ra trong quá khứ.
Là một nhà tâm lý học, đã từng nghiên cứu rất nhiều về tâm lý tr.ẻ e.m, tôi tin rằng trẻ phát triển tốt hơn nếu khi khóc, trẻ được bồng bế. Tôi nhận định phản đối phương pháp luyện ngủ Cry It Out (CIO) của bác sĩ Ferber.
Tôi thừa nhận rằng một trong những vấn đề khiến cha mẹ mệt mỏi, đau đầu là việc ngủ của con. Tuy nhiên, có rất nhiều những phương pháp nhẹ nhàng và hiệu quả hơn để giúp trẻ tự ngủ. Ngoài ra, bác sĩ Richard Ferber là bác sĩ nhi khoa chứ không phải là bác sĩ tâm lý, ông không được đào tạo về tâm lý trẻ sơ sinh.
Bác sĩ Richard Ferber, cha đẻ của phương pháp luyện ngủ Cry It Out.
Và một điều thú vị là trong những phỏng vấn gần đây, bác sĩ Ferber thừa nhận anh hối tiếc về một số lời khuyên mình đã đưa ra trong quá khứ. Anh cũng đồng thời cảm thấy buồn và tồi tệ khi các chuyên gia hiện nay khuyến khích các bà mẹ để mặc trẻ sơ sinh khóc, và theo ông chuyện trẻ sơ sinh ngủ chung với cha mẹ (co-sleeping) cũng rất tốt.
Phương pháp luyện ngủ CIO theo bác sĩ Ferber được mô tả như sau:
Khi luyện trẻ tự ngủ, bạn bắt đầu bằng cách để trẻ vào nôi và đi ra khỏi phòng trong 5 phút. Sau đó bạn đi vào trấn an, vỗ về và để bé khóc trong 10 phút. Sau 10 phút bạn lại đi ra và cứ để bé khóc tiếp trong 15 phút, sau đó lại quay vào vỗ về trấn an bé và thay quần áo nếu bé nôn hoặc đi vệ sinh... Cứ như thế thời gian để trẻ khóc kéo dài hơn và thường bé sẽ tự ngủ vì kiệt sức sau vài tiếng khóc lóc, có những bé khó chịu và nhạy cảm thì có thể khóc kéo dài cả đêm.
Sau một thời gian khóc và không được hồi đáp thì bé sẽ học được cách tự ngủ một mình. Tuy nhiên, ngay cả khi cha mẹ cùng nhất quán thực hiện phương pháp này thì nó không có hiệu quả với tất cả các bé. Có những em bé bị viêm tai giữa vì khóc quá nhiều làm tắc nghẽn tuyến tai và trong khi bé đang được điều trị viêm tai giữa, các bác sĩ khuyến cáo cha mẹ không luyện theo phương pháp CIO nữa. Thế nhưng sau khi bé khỏi bệnh thì cha mẹ lại bắt đầu luyện phương pháp này lại từ đầu.
Phương pháp Cry it out không có hiệu quả với mọi trẻ sơ sinh (Ảnh minh họa).
Hoặc đôi khi sự thay đổi bất kì trong môi trường của bé như khi bà lên thăm, trẻ bị bệnh...thì trẻ sẽ lại khóc khi ngủ và cha mẹ lại luyện lại phương pháp CIO. Quá trình này tiếp diễn và lặp lại khiến cha mẹ và trẻ phải chịu đựng nhiều lần.
Có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc liên tục bỏ rơi và để trẻ khóc trong một thời gian sẽ gây ra những thay đổi cấu trúc não của trẻ vĩnh viễn và ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của trẻ sau này. Tuy nhiên những bậc cha mẹ ủng hộ phương pháp này phản biện rằng, trong quá trình luyện ngủ họ thường xuyên vào phòng vỗ về để trấn an rằng các con sẽ không bị bỏ rơi, do đó trẻ không cảm thấy tổn thương và chỉ khóc để mè nheo.
Những nghiên cứu gần đây nhất chỉ ra rằng, khi trẻ bị khóc một mình, mức độ cortisol trong cơ thể bé bị tăng cao, đây là nguyên nhân khiến các bé cảm thấy đau buồn, lo lắng, căng thẳng. Nhưng điều bất ngờ là nghiên cứu cũng chỉ rõ rằng khi các bé được đặt trong phòng ngủ mà không khóc, nồng độ cortisol trong má.u vẫn tăng cao. Các nhà khoa học giải thích đây là dấu hiệu cho thấy bé vẫn không thoải mái, nhưng tại sao bé lại không khóc? Bởi vì bé được "huấn luyện" rằng "nếu có khóc, mẹ cũng sẽ không đến".
Theo cuốn sách "Sience Parenting - nền tảng khoa học của làm cha mẹ" của nhà tâm lý trị liệu tr.ẻ e.m người Anh, Margot Sunderland, đã đưa ra những nghiên cứu chứng tỏ việc để trẻ khóc một mình trong thời gian dài ảnh hưởng đến sự phát triển tối ưu não bộ của trẻ.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Harvard đã làm thử nghiệm về khả năng phát triển EQ ( trí thông minh cảm xúc), chức năng não bộ của trẻ sơ sinh cũng như sự khác biệt về nền văn hóa và đưa ra nhận định rằng: Những đứ.a tr.ẻ bị bỏ rơi khi ngủ phải chịu những tổn thương lâu dài đối với hệ thần kinh. Khi lớn lên những đứ.a tr.ẻ này dễ nhạy cảm về cảm xúc, dễ bị rối loạn lo âu và hoảng loạn hơn.
Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là nếu bố mẹ vẫn vào phòng trấn an con thì có bảo vệ được trẻ khỏi những nguy cơ lên não bộ và tâm lý trẻ so với CIO hay không? Một số quan điểm chống lại phương pháp CIO cho rằng khi bố mẹ vào phòng trấn an nhưng lại phớt lờ cảm xúc của trẻ thì chỉ làm tăng thêm sự khó chịu của trẻ và làm giảm lòng tin của trẻ dành cho cha mẹ mà thôi.
Rất khó để đán.h giá đúng sai hoàn toàn đối với phương pháp này vì trong sự phát triển trẻ sơ sinh còn rất nhiều yếu tố khác tác động tới. Tuy nhiên, những tài liệu chỉ rõ rằng tình trạng khóc kéo dài và không thoải mái ở trẻ sơ sinh khiến tăng nhịp tim, tăng huyết áp, giảm nồng độ oxy trong má.u, dự trữ năng lượng và oxy má.u bị suy giảm, tạo áp lực stress lên tim. Cortisol, adrenaline và các hormone căng thẳng khác tăng vọt làm rối loạn hệ miễn dịch và hệ tiêu hóa. Điều đó giải thích hợp lý cho việc lặp đi lặp lại trạng thái này khiến não bộ của trẻ phát triển khác thường, dễ bị kích thích và căng thẳng hơn so với bình thường.
Chúng tôi biết rằng ngay cả đối với người lớn, khi gặp một trải nghiệm hoảng loạn như ta.i nạ.n xe hơi có thể gây ra phản ứng căng thẳng cực độ và ảnh hưởng tâm lý kéo dài sau nhiều năm. Do đó vì nhịp tim và huyết áp của trẻ sơ sinh tăng vọt trong phương pháp CIO, những trải nghiệm không dễ chịu do phương pháp này đem lại có thể khắc sâu vào trí nhớ của trẻ vì sự hoảng loạn có thể tạo cảm xúc mạnhmẽ sau rất nhiều năm.
Vì vậy, càng ngày càng có nhiều luận điểm phê phán phương pháp của bác sĩ Ferber vì một số điểm chính sau:
1. Ferber là một bác sĩ nhi khoa không được đào tạo về tâm lý học
Mặc dù phương pháp của bác sĩ Ferber hướng đến mục tiêu "rèn trẻ tự ngủ trên giường riêng của trẻ" nhưng nó lại mang đến hệ lụy và những hậu quả không ngờ tới.
2. Trẻ học được rằng trẻ không thể tin tưởng dựa vào cha mẹ khi trẻ cần
Nếu trẻ có cảm giác thường xuyên bị bỏ rơi khi trẻ cần cha mẹ nhất, thì trẻ sẽ cảm thấy vô vọng, bất lực trong việc bày tỏ cảm xúc với thế giới xung quanh. Và điều quan trọng nhất trẻ cần học là sự tin tưởng vào cha mẹ, tin tưởng vào thế giới. Vậy tại sao cha mẹ lại không hỗ trợ điều đó, không ở cạnh bên khi trẻ cần?
3. Trẻ học được rằng cha mẹ sẽ không giúp đỡ trẻ khi trẻ cần
Khi cha mẹ đi vào phòng kiếm tra và nhắc nhở con đi ngủ đi, nhưng các bé lại không thể ngủ, điều này có thẻ do trẻ cảm thấy cha mẹ đang cố tình làm cho trẻ không thoải mái.
4. Những bài học đầu tiên đầu đời của trẻ sơ sinh này có thể ảnh hưởng đến tâm lý và thế giới quan của trẻ mãi mãi
Một số nhà phê phán phương pháp của bác sĩ Ferber cho rằng những đối tượng mất ngủ, hay tỉnh giấc giữa đêm là nạ.n nhâ.n của phương pháp CIO.
Tôi hiểu rằng có những trường hợp trẻ luyện ngủ theo phương pháp CIO sẽ ngủ sau vài phút và đó thể hiện sự hiệu quả của phương pháp. Tuy nhiên phương pháp này vẫn mang lại những rủi ro và hậu quả nặng nề. Trong khi đó có những phương pháp luyện ngủ nhẹ nhàng hơn để trẻ có thể tự ngủ từ 3 tháng tuổ.i. Hãy tham khảo thêm những bài viết của tôi về phương pháp rèn ngủ cho trẻ.
Richard Ferber là một bác sĩ nhi khoa đồng thời cũng là người sáng lập và la cưu giam đôc điêu hanh Trung tâm chuyên vê Rôi loan giâc ngu ơ tre em cua bênh viên Nhi Đông ơ Boston (Mỹ).
Margot Sunderland là một nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu tr.ẻ e.m người Anh. Bà là Giám đốc Giáo dục và Đào tạo tại Trung tâm Sức khỏe Tâm thần Tr.ẻ e.m và Thành viên danh dự tại Đại học London Metropolitan. Bà có kinh nghiệm làm việc với gia đình và tr.ẻ e.m trong hơn 30 năm.
Theo Helino
Bà mẹ "chế.t lặng" khi nghe bác sĩ nói nguyên nhân khiến con thập tử nhất sinh là do... sữa mẹ Cô con gái bé nhỏ mới 5 tuần tuổ.i bỗng dưng bị ốm, nôn nhiều, khóc cả đêm và có cả má.u trong bỉm. Thật sự sẽ chẳng có từ ngữ nào có thể diễn tả được cảm giác khi nghe bác sĩ bảo hãy vào nói lời tạm biệt với con vì cơ thể bé đang dần ngừng hoạt động. Bà mẹ...