Trung ương bắt đầu khảo sát về chính sách tiền lương
Sáng 17.10, Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, BHXH và ưu đãi người có công do Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban chỉ đạo dẫn đầu đã làm việc với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về nghiên cứu, khảo sát phục vụ xây dựng đề án cải cách chính tiền lương, BHXH và ưu đãi người có công.
Tham gia Đoàn khảo sát có đại diện Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Ban Tổ chức Trung ương, các Bộ, ban ngành thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao. Về phía Tổng LĐLĐVN có các đồng chí Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Bùi Văn Cường và các Phó Chủ tịch, lãnh đạo các Ban trực thuộc.
Hội nghị Trung ương 7 sẽ thảo luận về cải cách tiền lương
Theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, cải cách tiền lương không chỉ là điều chỉnh tiền lương cơ bản, tiền lương tối thiểu mà còn rất nhiều vấn đề khác liên quan đến chính sách tiền lương, ở nhiều khu vực, tiền lương của cán bộ công chức, viên chức (CBCCVC), lực lượng vũ trang, tiền lương của người lao động khu vực Nhà nước, khu vực sản xuất kinh doanh… Tương tự như vậy chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) cũng liên quan mật thiết đến người lao động…
Tuy nhiên, mỗi lần Chính phủ trình Đề án cải cách tiền lương để Trung ương Đảng thảo luận thì vấn đề quan trọng là nguồn để cải cách tiền lương. Qua thảo luận thì Trung ương thấy rằng cải cách tiền lương không phải chỉ mỗi việc tạo nguồn mà phải dựa vào cả tinh thần sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế…
Do đó, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng việc Hội nghị Trung ương 6 khoá XII sẽ thông qua 2 Nghị quyết quan trọng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ tạo tiền đề quan trọng để Hội nghị Trung ương lần thứ 7 thảo luận cặn kẽ và thông qua một Nghị quyết về cải cách tiền lương.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng khái quát lại quá trình hình thành chính sách tiền lương hiện nay khi mà từ năm 1956- 1957 nước ta đã hình thành chế độ tiền lương áp dụng cho các xí nghiệp, nhà máy, nông trường. Năm 1960, với sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam đã thực hiện cải cách tiền lương áp dụng với người làm việc trong khu vực nhà nước, công nhân viên chức, sĩ quan. Hệ thống lương quy định cụ thể theo công việc chức vụ, nhiệm vụ gắn với trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo. Tuy nhiên, thời kỳ này ngoài lương thì Nhà nước bao cấp mạnh theo tem phiếu thậm chí cán bộ công chức có nhà ở phân phối, tổng người hưởng lương nhà nước thời điểm này khoảng 1 triệu người.
Năm 1985, Việt Nam cải cách tiền lương lần thứ 2 và tới năm năm 1993 là lần cải cách tiền lương lớn nhất từ trước tới nay. Lần này, cải cách đã mở rộng quan hệ tiền lương, cùng hệ thống thang, bảng lương.
Trưởng Ban chỉ đạo cũng chi ra những bất cập của chính sách tiền lương hiện nay là: Chưa làm người lao động gắn bó với công việc, mức lương tối thiểu chưa bảo đảm mức sống tối thiểu, quan hệ tiền lương mang tính bình quân, thấp hơn nhiều quan hệ tiền lương trên thị trường lao động, hệ thống thang bảng lương phức tạp và lạc hậu, mở rộng đối tượng và các loại phụ cấp tạo bất cập cho các cơ quan, có rất nhiều các loại phụ cấp, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập còn nhiều bất cập (lương gồm cơ bản, thưởng, phụ cấp và khoản ngoài lương mà khoản ngoài lương lớn hơn lương), tiền lương của lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quá cao so với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rồi sau này điều chỉnh lại thì bất cập mới là tiền lương lãnh đạo DNNN lại bị đóng khung.
Video đang HOT
Nguyên nhân của thực trạng này là đối tượng hưởng lương tăng nhanh mà ngân sách không đáp ứng kịp (tính tới nay là hơn 8 triệu người hưởng lương từ ngân sách), nguồn lực ngân sách hạn chế; chậm cụ thể hoá quan điểm chi tiền lương là chi đầu tư phát triển để nâng cao chấtlượng công chức; chưa tạo đột phá về quản lý ngân sách; chưa quản lý tốt tiền lương; chưa khắc phục bất cập quản lý DNNN, đơn vị sự nhiệp công.
Do đó, Phó Thủ tướng cho biết các Đoàn khảo sát của Ban chỉ đạo sẽ tập trung làm rõ các vấn đề về tiền lương cơ sở, lương tối thiểu vùng, quan hệ tiền lương tối thiểu- lương tối đa, các chế độ phụ cấp, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập; tạo nguồn cải cách tiền lương.
Đối với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có đặc thù riêng trong vấn đề tiền lương thì Phó Thủ tướng đề nghị cần làm rõ việc tính toán, thiết kế thang- bảng lương, tìm nguồn chi trả, cách quản lý và cách trả lương cho cán bộ, việc chức. Với khu vực sản xuất, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm rõ về tiền lương tối thiểu vùng.
“Hôm nay chúng ta khởi đầu khảo sát vấn đề tiền lươngcho Trung ương 7, nhưng còn gian truân lắm, phải tập trung trí tuệ, phương pháp thực hiện, mời các chuyên gia về lĩnh vực này tham gia đoàn khảo sát”, Phó Thủ tướng nói.
Lấy thu để chi cho lương
Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Bùi Văn Cường đã báo cáo khái quát tình hình thực hiện chính sách tiền lương trong hệ thống Công đoàn và tình hình thực hiện chính sách tiền lương, BHXH và ưu đãi người có công.
Trong hệ thống của liên đoàn Lao động thì cấp Trung ương là Tổng LĐLĐVN; 63 LĐLĐ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 20 công đoàn ngành trung ương và tương đương; cấp trên trực tiếp cơ sở có 1157 đơn vị, gồm: 710 LĐLĐ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; 616 công đoàn giáo dục cấp huyện.
361 Công đoàn ngành địa phương (hiện nay đang thực hiện giải thể các công đoàn giáo dục huyện và sắp xếp lại các công đoàn ngành địa phương có dưới 2.000 đoàn viên); 48 Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế của 46 LĐLĐ tỉnh, thành phố; 25 công đoàn tổng công ty và 13 công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đặc thù khác; cấp cơ sở: 126.000 Công đoàn cơ sở, với trên 1,1 triệu cán bộ công đoàn không chuyên trách.
Ngoài ra tổ chức công đoàn có 126 đơn vị sự nghiệp công đoàn gồm 10 đơn vị trực thuộc Tổng LĐLĐVN; 113 đơn vị sự nghiệp trực thuộc các LĐLĐ tỉnh, thành phố và 3 đơn vị trực thuộc công đoàn ngành trung ương và tương đương.
Toàn hệ thống Công đoàn có 14.957 cán bộ công chức, viên chức và người lao động. Thu nhập bình quân: 6.822.204 đồng/người/tháng.
Tại buổi làm việc, các ý kiến phát biểu cũng bày tỏ thống nhất một số nội dung như: Khi xác định vị trí việc làm thì duy trì rất ít phụ cấp (chỉ còn phụ cấp khu vực, ngành nghề); Tăng quyền quản lý tiền lương cho người sử dụng lao động kể cả trong khối công chức, viên chức; Tiền lương tối thiểu phụ thuộc nhiều yếu tố không chỉ có mức sống tối thiểu nhưng phải hướng tới đáp ứng mức sống tối thiểu và đặt ra vấn đề có nên quy định tiền lương tối thiểu chung cho các khu vực không.
Đối với Tổng Liên đoàn lao động phải chú ý tới đặc thù ngànhđể không quản lý biên chế cào bằng, phải bảo đảm thu để chi cho lương. Xác định nguồn trả lương phải gắn với cải cách bộ máy và tinh giản biên chế, phát triển kinh tế để thu và từ các khoản tiết kiệm. Về chi trả BHXH thì tuân thủ nguyên tắc bao phủ, chia sẻ rủi ro và tổ chức thực hiệnchính sách này không chi trả quá nhiều và cũng không quá “cứng”.
Sau đợt khảo sát ở Tổng Liên đoàn Lao động, Ban chỉ đạo sẽ khảo sát tại các cơ quan khác như Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,…
Theo Danviet
Sa thải lao động sớm - Gánh nặng cho BHXH
Tại nhiều doanh nghiệp đang có hiện tượng sa thải công nhân ở tuổi "đang xoan", mới trên 35 tuổi. Theo các chuyên gia lao động, việc sa thải công nhân lao động sớm sẽ tác động lớn hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là tình trạng nhận bảo hiểm xã hội (BHXH) một lần, gia tăng nhận bảo hiểm thất nghiệp.
Đang khỏe đã... hưu
Ông Lê Đình Quảng - Phó Ban quan hệ lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho biết: Có hiện tượng doanh nghiệp gia tăng sa thải người lao động trên 35 tuổi. Qua khảo sát 64 doanh nghiệp, có hiện tượng người lao động chỉ làm việc tại doanh nghiệp 6-7 năm rồi nghỉ. Theo khảo sát của Tổng Liên đoàn, thường lao động chỉ làm đến 31-32 tuổi rồi nghỉ và ít người làm đến 35 tuổi.
Lao động trẻ khỏe nhưng vẫn có nguy cơ bị sa thải sớm. Ảnh minh họa, chụp tại doanh nghiệp FDI ở Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Ảnh: Viết Thành
Việc sa thải công nhân lao động trên 35 tuổi đang tác động lớn hệ thống an sinh xã hội. Do đó, Ban thực hiện chính sách BHXH cần có báo cáo phân tích tình trạng người lao động trên 35 tuổi nghỉ việc qua hệ thống thống kê của ngành BHXH, để từ đó có tham vấn chính sách, cũng như định hướng tuyên truyền cụ thể hơn". Ông Phạm Lương Sơn
Theo ông Quảng, việc giải quyết tình trạng thất nghiệp của BHXH Hà Nội thời gian qua cũng cho thấy tình trạng này. Lý do các doanh nghiệp cho các lao động này nghỉ việc sớm là những lao động làm việc trực tiếp ở khu vực điều kiện không tốt, cường độ cao. Sau 35 tuổi, nhiều lao động có sức khỏe kém, khả năng ứng dụng khoa học kém, năng suất lao động thấp. Ngoài ra, chi phí BHXH của các lao động làm việc lâu năm lại cao, do đó nhiều doanh nghiệp có chính sách, biện pháp để đẩy người lao động ra khỏi doanh nghiệp. Có doanh nghiệp đã thỏa thuận chi cho người lao động một khoản tiền kha khá để lao động thôi việc.
"Về lâu dài, việc làm này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, chính sách an sinh và chính sách giải quyết việc làm của chúng ta. Người lao động thôi việc được nhận trợ cấp một lần và rất khó xin việc trở lại ở các doanh nghiệp, công ty có quan hệ lao động. Hầu hết họ chuyển sang làm lao động tự do. Điều này đồng nghĩa với việc họ có thể sẽ không tham gia đóng BHXH, bảo hiểm y tế. Đồng thời chúng ta cũng lãng phí một nguồn lao động lớn khi các lao động này đều đang trong tuổi lao động sung mãn nhất. Hiện nay, tuổi nghỉ hưu của lao động nam là 60, nữ là 55, thậm chí chúng ta đang tính đến nâng tuổi nghỉ hưu 3-5 năm nữa. Vậy mà hiện nay lại có không ít lao động "nghỉ hưu" ở tuổi 35-40. Điều này thật lãng phí" - ông Quảng nhận định.
Hồi tháng 5.2017, Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) đã công bố nghiên cứu cho thấy, có tình trạng khá phổ biến là công nhân lao động độ tuổi ngoài 30, đặc biệt là lao động nữ và lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nghỉ việc vì sức ép năng suất, định mức lao động cao, cường độ lao động căng thẳng, sức khỏe giảm sút... Trong khi đó, họ có thu nhập không cao hoặc bấp bênh, không có thời gian lo cho gia đình, chăm lo cho con cái.
Còn ông Đỗ Ngọc Thọ - Phó trưởng Ban thực hiện chính sách (BHXH Việt Nam) cũng cho rằng, có tình trạng lao động nghỉ trên 35 tuổi đã nghỉ việc, tuy nhiên chưa thấy có trường hợp nào lao động bị doanh nghiệp ép nghỉ việc sớm. "Một số doanh nghiệp cho lao động nghỉ việc sớm là vì mục đích lợi nhuận, doanh nghiệp muốn thải loại người lao động cao tuổi, năng suất lao động không đảm bảo để tiếp nhận những lao động mới nhanh nhẹn hơn. Chủ sở hữu lao động vì mục đích lợi nhuận nên đã thỏa thuận sẽ trợ cấp cho người lao động thêm một khoản nào đó để họ nghỉ việc" - ông Thọ nói.
Cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp
Theo ông Quảng, các cơ quan liên quan cần nghiên cứu chính sách để chấm dứt tình trạng cho "về hưu non" ở nhiều doanh nghiệp hiện nay, đảm bảo việc làm bền vững cho người lao động. Cụ thể như có cơ chế ràng buộc để buộc các doanh nghiệp sử dụng lao động sau 35 tuổi; đồng thời tuyên truyền để tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tăng cường giám sát để xử lý các doanh nghiệp thải loại lao động trái phép. "Chúng ta đang hoạt động theo cơ chế thị trường linh hoạt, tự nguyện nên không thể ép buộc doanh nghiệp giữ lao động, do đó sẽ phải tăng cường các chính sách khuyến khích doanh nghiệp" - ông Quảng chia sẻ.
Để giải quyết việc này, ông Thọ cho rằng cần những chính sách vĩ mô của Nhà nước. Ví dụ như hiện tại, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp đang có nội dung chi trả cho việc hỗ trợ đào tạo người lao động chuyển nghề, nhằm khắc phục tình trạng người lao động bị đào thải do không thích ứng được với những cải tiến về quy trình làm việc mới.
Tuy nhiên, quỹ vẫn chưa có cơ hội để chi trả khoản này vì nhiều lý do. Cụ thể như điều kiện để doanh nghiệp được hưởng các khoản hỗ trợ đó vẫn còn khá ngặt nghèo, Nhà nước chưa có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giữ lại lao động lớn tuổi mà doanh nghiệp đang dự định đào thải. Do đó, muốn doanh nghiệp giữ lao động cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi...
Ông Phạm Lương Sơn - Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam khẳng định: Việc sa thải công nhân lao động trên 35 tuổi đang tác động lớn hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là tình trạng nhận BHXH 1 lần, gia tăng nhận bảo hiểm thất nghiệp.
Theo Danviet
Lương của Đại tướng trong quân đội Việt Nam là bao nhiêu? Lương của Đại tướng là 12.584.000 đồng/tháng; Nâng lương cấp bậc quân hàm sĩ quan và cấp hàm cơ yếu với Đại tướng là 13.310.000 đồng/tháng Thông tư 77/2016/TT-BQP do Bộ Quốc phòng ban hành tháng 6/2016, hướng dẫn thực hiện mức lương cơ sở đối với các đối tượng đang hưởng lương hoặc phụ cấp quân hàm từ NSNN trong cơ quan,...