Trung Quốc trả giá đắt nếu leo thang vụ giàn khoan Hải Dương 981
“Dù chênh lệch tương quan lực lượng, trong trường hợp xảy ra xung đột, chắc chắn Trung Quốc phải trả giá đắt. Giải pháp cho khủng hoảng Biển Đông nên giải quyết trên bàn đàm phán”, ông Minxin Pei nói.
Trung Quốc chuẩn bị gì cho Biển Đông?
Biển Đông giàu tài nguyên có thể sẽ trở thành một điểm nóng ở Đông Á, gây ra xung đột quân sự giữa các nước trong khu vực cũng như lôi kéo sự tham gia của Mỹ. Khu vực Biển Đông với ngư trường phong phú và trữ lượng dầu khí phong phú tự nhiên chưa được khai thác đang trở thành mục tiêu của Trung Quốc.
“Trung Quốc từng ngang nhiên tuyên bố chủ quyền phần lớn Biển Đông trong nhiều thập kỷ và quyết tâm thành lập quyền kiểm soát trên vùng biển này của Trung Quốc không thay đổi”, các chuyên gia an ninh cho biết. Sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền, chính quyền Trung Quốc bắt đầu trở nên tích cực hơn chứng minh khả năng của mình bằng việc có những xung đột trực tiếp với các nước láng giềng.
“Xu hướng hiện tại cho thấy phong cách mới của chính phủ Trung Quốc: họ sẵn sàng dùng hành động để đạt được những yêu sách”, Christopher Len – nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Năng lượng ĐH Quốc gia Singapore nhận xét.
Minh chứng cho điều này là mới đây nhất, Trung Quốc đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 (HD981) trong vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Xung quanh giàn khoan HD981, Trung Quốc cũng triển khai hàng chục tàu các loại bao gồm cả tàu quân sự, tàu Hải Cảnh, Hải Giám, Ngư Chính và tàu cá đến khu vực xung quanh giàn khoan. Các tàu Trung Quốc chủ động đâm và sử dụng vòi rồng tấn công tàu Cảnh Sát Biển và tàu Kiểm Ngư của Việt Nam khi tàu Việt Nam tiếp cận giàn khoan để thực thi nhiệm vụ.
Mặc dù chưa xảy ra tổn thất nghiêm trọng nhưng hành động ngang ngược của Trung Quốc báo hiệu sự leo thang nguy hiểm trong khu vực, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Tàu Trung Quốc ngăn cản tàu Việt Nam tiếp cận giàn khoan HD-981.
Trung Quốc cho rằng, giàn khoan Hải Dương 981 nằm trong vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế giữa quần đảo Tây Sa (thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974) và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, tuyên bố của Trung Quốc đi ngược lại Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển.
Trước sự kiện giàn khoan HD981, các cuộc va chạm trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực Hoàng Sa vẫn chỉ là những vụ quấy rối các tàu thăm dò địa chất Việt Nam của Trung Quốc. Những vụ quấy rối này có thể làm gia tăng căng thẳng nhưng khó có thể dẫn tới xung đột.
Tuy nhiên, trong sự kiện giàn khoan HD981, việc Trung Quốc cử tới hơn 80 tàu với bảo vệ giàn khoan này cho thấy Bắc Kinh dự đoán được phản ứng mạnh mẽ từ phía Việt Nam. Cũng là rất hợp lý để tin rằng, Bắc Kinh có kế hoạch dự phòng cho những cuộc xung đột tiếp theo.
Trước câu hỏi về việc Trung Quốc đặt giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam là hành động đơn lẻ, bộc phát, chỉ đơn thuần mang tính chất kinh tế hay nằm trong chủ trương đã được toan tính từ lâu, thiếu tướng Lê Văn Cương, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Công an cho biết: “Tổng công ty dầu khí Hải Dương của Trung Quốc là một đơn vị kinh tế nhà nước, 100% vốn nhà nước nên mọi hành động của đơn vị này đều phải xuất phát từ các cấp lãnh đạo của nhà nước”.
Chuyên gia Mỹ: Leo thang quân sự, Trung Quốc sẽ phải trả giá đắt
“Không giống Philippines, chính phủ Việt Nam đã đầu tư đáng kể cho hải quân và không quân trong những năm gần đây bằng việc mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga (đã nhận 3 chiếc) và nhiều máy bay chiến đấu Su-30MK chuyên tấn công tàu. Những khoản đầu tư này cho thấy Việt Nam sẵn sàng để bảo vệ chủ quyền của mình đối với các vùng biển đảo. Mặc dù có sự chênh lệch rõ ràng tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và Việt Nam nhưng trong trường hợp xảy ra xung đột, chắc chắn Trung Quốc sẽ phải trả giá đắt”, ông Minxin Pei, giáo sư môn chính phủ học và cũng là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Keck tại ĐH Claremont McKenna khẳng định.
Video đang HOT
Nếu một trận không – hải chiến xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam gần Hoàng Sa, Mỹ sẽ phải đối mặt với một tình thế khó khăn. Về mặt chính thức, Washington không đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông. Tuy nhiên, Mỹ sẽ dễ dàng đồng cảm với những nước chống lại Trung Quốc. Việc cung cấp viện trợ quân sự cho Việt Nam nhưng không can thiệp trực tiếp sẽ không có nhiều giá trị do khoảng cách lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc quá lớn. Cho phép Trung Quốc bắt nạt Việt Nam sẽ vi phạm vào nguyên tắc của Mỹ cũng như tạo ra các tiền lệ không đáng có.
Tìm giải pháp trên bàn ngoại giao
“Do những cái giá phải trả nếu leo thang quân sự giữa 2 bên, rất có thể giải pháp ngăn chặn khủng hoảng ở Biển Đông sẽ bắt nguồn từ ngoại giao”, ông Minxin Pei nhận định.
Theo ông Pei, Trung Quốc sẽ phải tìm cách đàm phán để rút lui trong danh dự, trong khi Việt Nam sẽ tìm cách giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mình. Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ bằng con đường ngoại giao từ phía Mỹ, đồng minh của Mỹ và các nước ASEAN.
Việt Nam và Trung Quốc sẽ tìm kiếm giải pháp cho vụ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc trên bàn đàm phán ngoại giao.
Quan điểm của ông Minxin Pei cũng phần nào tương đồng với quan điểm của thiếu tướng Lê Văn Cương.
Trong bài phân tích tại chương trình Sự kiện & Bình luận sáng 10/5 của VTV về hành động ngang ngược của Trung Quốc, thiếu tướng Lê Văn Cương cũng nhận định Việt Nam và Trung Quốc sẽ tránh giải pháp sử dụng quân sự.
Nói về những phương thức nhằm buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ), Thiếu Tướng Lê Văn Cương cho biết: “Về mặt tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải trong phạm vi quốc tế, thông thường có 4 phương thức gồm: trao đổi song phương, đàm phán với nhau trên cơ sở luật pháp quốc tế; dùng nước thứ 3 làm trung gian hòa giải; đưa ra tòa án quốc tế phân xử và cuối cùng là giải pháp quân sự. Tuy nhiên, bất kỳ quốc gia nào, không chỉ là nước nhỏ mà cả nước lớn đều luôn cố gắng tránh giải pháp cuối cùng, vì điều này luôn là hạ sách.
“Về vấn đề Việt Nam – Trung Quốc hiện nay, trong nhiều năm, Việt Nam luôn kiên trì con đường đàm phán song phương với Trung Quốc, từng bước một giải quyết bất đồng và tranh chấp trên biển, đảm bảo lợi ích của 2 dân tộc, 2 quốc gia và 2 nước. Vì thế, hiện Việt Nam đã và đang thực hiện phương thức giải quyết số 1 và điều này không phải là không có hiệu quả. Ta có thể thấy rằng, mỗi hành động của Trung Quốc ở Biển Đông hay Hoa Đông sau khi hành xử xong đều phải lắng nghe phản ứng của cộng đồng quốc tế thế nào, rồi sau đó mới có hành động tiếp theo. Do vậy, phản ứng Việt Nam và thế giới sau sự kiện này, tôi tin rằng muốn hay không muốn lãnh đạo Trung Quốc phải suy xét hành động tiếp theo của họ”, ông Lê Văn Cương phân tích.
“Giữa Việt Nam – Trung Quốc, tôi cho rằng, Trung Quốc có thể có nhiều vũ khí, lắm tiền của hơn Việt Nam, nhưng chúng ta có 2 sức mạnh mà Trung Quốc không bao giờ có cả. Đó là là đạo lý, pháp lý xung quanh các vấn đề tranh chấp. Theo tôi, cộng đồng quốc tế bao giờ cũng đứng về Việt Nam, do những hạn chế, nguyên nhân khách – chủ quan mà họ không lên tiếng hoặc lên tiếng mức độ, nhưng tôi tin cộng đồng quốc tế luôn ủng hộ chúng ta”, ông Lê Văn Cương nói.
Thiếu tướng Lê Văn Cương kết luận, “vì vậy, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu – buộc Trung Quốc rút giàn khoan HD981, rút tất cả các tàu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế biển của Việt Nam”.
Theo Kiến thức
Mỹ dính đòn 'hồi mã thương' nếu trừng phạt Gazprom
Thượng viện Mỹ có thể áp đặt các biện pháp mạnh hơn để trừng phạt Nga, ví dụ nhắm vào Tập đoàn Gazprom. Nhưng theo các chuyên gia, Mỹ sẽ không thể gây thiệt hại đáng kể cho Gazprom mà thậm chí còn chuốc họa vào thân.
Châu Âu không thể ngay lập tức từ bỏ khí đốt Nga.
Một thực tế mà cả thế giới đều đã biết là Gazprom chủ yếu tập trung vào các khách hàng châu Âu và không có nhiều quan hệ kinh doanh với thị trường khí đốt Mỹ, nên nếu Mỹ áp dụng lệnh trừng phạt đối với Gazprom cũng chỉ mang lại những ảnh hưởng vô cùng khiêm tốn.
Ở châu Âu, vấn đề giảm sự lệ thuộc vào khí đốt Nga đã được đưa ra từ lâu. Trong thập niên 1970-80, châu Âu nhập khẩu 70% khí đốt của Liên Xô, nay tỷ lệ này chỉ là 41%. Trong thập niên 2000 và 2010, lượng khí đốt cung cấp cho châu Âu không tăng, dao động ở mức 130-160 tỷ m3/năm.
Tuy nhiên, châu Âu không thể ngay lập tức từ bỏ khí đốt Nga, vì khu vực này không đủ hạ tầng cơ sở trong thời gian ngắn chuyển sang nhập khẩu khí đốt các nước khác. Khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) có thể tạo ra sự linh hoạt cần thiết. Tuy nhiên, tỷ trọng LNG trong cơ cấu nhập khẩu của châu Âu hiện là 22%. Năng lực khí hóa không đủ để nhanh chóng thay thế 130 tỷ m3 khí đốt tự nhiên Nga. Vì thế việc áp đặt trừng phạt ít khả năng xảy ra về mặt kỹ thuật.
Biện pháp trừng phạt của Mỹ chỉ tác động mạnh tới Gazprom khi nhà chức trách châu Âu quyết định tham gia vào quá trình này, bất chấp thiệt hại kinh tế. Tuy nhiên, kịch bản đó khó có thể xảy ra: không chính trị gia châu Âu nào chấp nhận hi sinh sự phục hồi kinh tế mong manh của khu vực vì các kế hoạch địa chính trị của Mỹ.
Thêm vào đó, nếu kiên quyết áp đặt lệnh trừng phạt Gazprom, chính bản thân nước Mỹ sẽ chuốc lấy rất nhiều những rắc rối nguy hiểm.
Giá dầu mỏ và khí đốt thế giới tăng mạnh
Trừng phạt Gazprom có thể làm tăng giá dầu mỏ và khí đốt. Dù thị trường Mỹ, độc lập với châu Âu, song không hề miễn nhiễm trước tình trạng tăng giá khí đốt.
Trong trường hợp giá khí đốt tăng mạnh, cung cấp khí hóa lỏng (LNG) sẽ có lợi, làm tăng giá LNG trên thị trường nội địa. Tuy nhiên, đừng quên rằng cuộc "cách mạng khí đá phiến", mở ra cánh cửa tiếp cận năng lượng giá rẻ và đã làm giảm đáng kể khoảng cách chi phí giữa Mỹ và Trung Quốc.
Kết quả là nhiều nhà sản xuất đã xem xét lại quyết định chuyển cơ sở sản xuất tới Trung Quốc và nay đang diễn ra tiến trình ngược, giúp kinh tế Mỹ tăng cường hồi phục. Tuy nhiên, các nhà sản xuất có thể thay đổi quan điểm nếu Mỹ tăng xuất khẩu khí đốt.
Chương trình giải cứu kinh tế Ukraine thất bại
Việc từ chối khí đốt Nga sẽ làm tăng giá khí đốt tại châu Âu. Trong trường hợp này sự hỗ trợ dành cho Ukraine sẽ bị giáng một đòn đau vì tài trợ cho giá khí đốt cao, Kiev cần rất nhiều tiền. Nỗ lực tăng giá khí đốt một lần nữa tại Ukraine có thể gây nên làn sóng cách mạng mới hay làm tăng số tiền nợ, làm giảm thu nhập thực tế của người dân vì phải trả tiền mua khí đốt nhiều hơn.
Nga "cười tươi" vì "ngư ông đắc lợi"
Cấm vận dầu mỏ Nga sẽ đem đến những khó khăn thực sự với các nước châu Âu. Ngược lại, điều này cho phép Chính phủ Nga vui mừng hơn vì họ sẽ khôi phục tương đối nhanh chóng nguồn thu dầu mỏ bằng cách chuyển hướng xuất khẩu sang các nước khác, và hưởng lợi "đậm hơn" nhờ giá bán trên thị trường cao. Áp đặt các biện pháp trừng phạt này hầu như không có ý nghĩa thực tế.
Ngoài ra sau khi tái định hướng xuất khẩu sang các nước châu Á, Chính phủ Nga đã có thể bổ sung thêm thu nhập nhờ giá dầu tăng. Cân đối về trung hạn, ngân sách Nga sẽ có lợi từ thay đổi này.
Hơn nữa, khi Nga đẩy mạnh xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt cho châu Á, việc giao dịch bằng những đồng tiền khu vực (Nhân dân tệ, Yên Nhật...) sẽ tăng lên và giảm sự phụ thuộc của các nước này vào đồng USD.
Điều gì sẽ xảy ra nếu các nền kinh tế hùng mạnh như Trung Quốc, Nhật Bản giảm phụ thuộc vào đồng USD thì Mỹ biết rõ hơn ai hết và chính họ là người phải hoảng sợ.
Các tập đoàn dầu khí toàn cầu bị vạ lây
Dù Gazprom hầu như ít cạnh tranh với các công ty Mỹ, tập đoàn này có rất nhiều dự án chung với các tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới như Royal DutchShell, Exxon Mobil. Trừng phạt Gazprom có thể gây tổn hại nghiêm trọng tới các doanh nghiệp này, không cho phép họ tiếp cận các dự án giàu tiềm năng của Nga như Sakhalin -2. Trong trường hợp các tập đoàn này rút lui, thay thế họ có thể là các doanh nghiệp dầu khí Trung Quốc và rốt cuộc khiến những Royal Dutch Shell hay Exxon Mobil mất vị trí hàng đầu trên thị trường.
Lợi ích địa chính trị của Mỹ có thể khiến các tập đoàn lớn phải trả giá quá đắt, vì vậy các tập đoàn này sẽ gây sức ép mạnh mẽ lên Nhà Trắng bằng cách vận động hành lang ở Washington để ngăn các quyết định như vậy.
Mất đi sự ủng hộ tại châu Âu
Các chính trị gia châu Âu tính rằng trừng phạt Gazprom sẽ khiến giá khí đốt tăng. Mức tăng phụ thuộc vào các biện pháp châu Âu áp dụng để giảm ảnh hưởng của Gazprom trên thị trường. Nếu nguồn cung khí đốt Nga bị hạn chế, lượng khí đốt bổ sung lấy từ đâu?
Trong vấn đề này, mới đây Hà Lan cho biết sản lượng khai thác khí đốt sẽ giảm mạnh, do các nguyên nhân sinh thái và tình trạng dự trữ giảm sút không thể đảo ngược, khi chính phủ các nước muốn bảo vệ trữ lượng cho nhu cầu nội địa lâu nhất có thể. Giá khí đốt Na Uy sẽ tăng do việc phát triển các mỏ khí mới trở nên phức tạp và tốn kém hơn, còn Anh, nước nhập khẩu khí đốt Na Uy nhiều nhất, có kế hoạch tăng khối lượng cung cấp lên tới 30%.
Trong khi đó, Qatar không ngừng tăng khối lượng xuất khẩu sang châu Á, nơi nước này có thể có thu nhập cao hơn 80% nhờ giá xuất khẩu LNG tương đương 1.000 tỷ m3 khí đốt.
Ngoài ra, Algeria đang đẩy mạnh cầu trong nước, và nỗ lực duy trì quan hệ gần gũi với Gazprom để thực hiện các dự án trong tương lai. Khối lượng khai thác của nước này dường như cũng đã đạt đỉnh. Toàn bộ trữ lượng khí đốt của Algeria là khoảng 4.000 tỷ m3, tương đương với 5-6 năm cung cấp khí đốt cho Ukraine hay Thổ Nhĩ Kỳ. Trữ lượng này không thể giải quyết vấn đề khí đốt của EU xét theo chiến lược lâu dài.
Azerbaijan cũng vậy, dù tham gia sâu vào "Hành lang khí đốt phương Nam" và cung cấp khí đốt cho Thổ Nhĩ Kỳ và EU theo tuyến đường ống TANAP-TAP, nước này chỉ có trữ lượng đã được thẩm định là 1.000 tỷ m3 khí đốt, trong khi nhu cầu nội địa gia tăng. Điều này có nghĩa là Azerbaijan có thể chào bán khí đốt cho Georgia, Thổ Nhĩ Kỳ hay thậm chí là Hy Lạp, Bulgaria, song không thể cung cấp khí đốt cho châu Âu trong trung hạn.
Các nước có vai trò lớn khác, như Turkmenistan và Uzbekistan, đang tập trung vào thị trường Trung Quốc khổng lồ, và có quan hệ mật thiết với Nga, cả về kinh tế và chính sách.
Châu Âu có thể ở trong tình thế khó khăn, và do chính sách ủng hộ Mỹ, họ có thể mất đi sự ủng hộ, khiến cho một số "tiền đồn" lớn ở châu Âu có thể bị thay thế bởi những chính trị gia có quan điểm thân Nga hay những người thực dụng không ủng hộ Mỹ khi lợi ích bị ảnh hưởng.
Mất ảnh hưởng địa chính trị trong khu vực
Ảnh hưởng địa chính trị của Mỹ tại khu vực Địa Trung Hải có thể bị đe dọa. Hiện chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ rất không hài lòng với hành động của Mỹ, và xích lại gần Nga. Hơn nữa, vấn đề khí đốt là phương sách chủ chốt để cũng cố mối quan hệ hợp tác kinh tế.
Thổ Nhĩ Kỳ và Nga đã quyết định tăng công suất chuyển tải của tuyến đường ống "Dòng chảy màu Xanh" lên 19 triệu m3, so với mức 16 triệu m3 hiện nay. Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ đưa ra quyết định xây dựng tuyến đường ống "Dòng chảy phương Nam" trên lãnh thổ nước này, trong trường hợp các chính phủ châu Âu ngăn hoạt động xây dựng đó. Trong trường hợp này có thể nói đến sự hội nhập sâu rộng giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ trong vấn đề năng lượng.
Theo Infonet
Nhân tố Chernobyl trong khủng hoảng Ukraina Hai mươi tám năm sau khi nhà máy hạt nhân Chernobyl phát nổ, Ukraina đối đầu với một dạng bóng ma hạt nhân khác: khả năng các lò phản ứng của nước này sẽ trở thành mục tiêu tấn công quân sự Phát biểu tại Hội nghị An ninh Hạt nhân tại La Hay vào tháng Ba, quyền Ngoại trưởng Ukraina Andrii Deshchytsia...