Trung Quốc thay đổi chính sách, xuất khẩu sắn ảm đạm
Như nhiều loại nông sản xuất khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu sắn 6 tháng đầu năm 2019 có sự sụt giảm đáng kể. Đây là mặt hàng mấy năm trước có sự tăng trưởng ngoạn mục. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do sự thay đổi ở thị trường xuất khẩu chính Trung Quốc.
Kim ngạch xuất khẩu giảm
Theo thống kê sơ bộ, tháng 7/2019 cả nước đã xuất khẩu được khoảng 140.000 tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, trị giá ước đạt 55 triệu USD, tăng 4,6% về lượng và tăng 3,5% về trị giá so với tháng 6/2019; so với cùng kỳ năm 2018 tăng 27,2% về lượng và tăng 10,7% về trị giá; giá xuất khẩu bình quân giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2018, xuống còn 393 USD/tấn.
Nông dân Phú Yên thu hoạch sắn. Ảnh: T.L
Tính đến hết tháng 7/2019 xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn ước đạt 1,34 triệu tấn, trị giá 517 triệu USD, giảm 15,7% về lượng và giảm 12,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Tính riêng mặt hàng sắn, trong tháng 7/2019 xuất khẩu ước đạt 4.000 tấn, trị giá 1 triệu USD, giảm 79,3% về lượng và giảm 81,1% về trị giá so với tháng 6/2019. Tính chung 7 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu sắn ước đạt 242.000 tấn, trị giá 51 triệu USD, giảm 57,6% về lượng và giảm 58,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Theo Agromonitor, lượng tồn kho sắn lát cả nước đến ngày 20/7/2019 ước tính còn khoảng 160.000 tấn (khu vực Quy Nhơn còn khoảng 100.000 tấn và miền Nam còn khoảng 60.000 tấn), trong khi nhu cầu tiêu thụ từ các nhà máy cồn và nhà máy sản xuất cám thủy sản các tháng cuối năm khá tốt, bên cạnh đó nguồn cung sắn vụ mới tại Tây Nguyên dự kiến sẽ có muộn hơn ít nhất khoảng 1 tháng so với mọi năm do sắn trồng vụ mới bắt đầu muộn hơn bởi thời tiết nắng nóng, khô hạn.
Do đó, tổng lượng sắn lát xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2019 có thể chỉ đạt quanh con số 300.000 tấn, giảm trên 50% so với năm 2018. Đối với tinh bột sắn, xuất khẩu trong ngắn hạn chưa có dấu hiệu khả quan do nhiều nhà máy thực phẩm của Trung Quốc vẫn đang dừng hoạt động…
Video đang HOT
Khó khăn trăm bề
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), Trung Quốc vẫn tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những tháng đầu năm, chiếm tới 89,2%, giảm 16,4% về khối lượng và giảm 3,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.
Nguyên nhân khiến xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn của Việt Nam giảm là bởi xuất khẩu tinh bột sắn suy giảm mạnh trên cả hai kênh xuất khẩu chính ngạch và biên mậu. Nguồn cung và chất lượng sắn củ tươi giảm mạnh nên hầu hết các nhà máy chế biến tinh bột sắn đã tạm ngừng sản xuất khiến nguồn cung tinh bột sắn xuất khẩu khan hiếm. Bên cạnh đó, giá xuất khẩu đang giảm mạnh nên doanh nghiệp có xu hướng gom hàng, tạm ngừng xuất khẩu.
Hiện nay, nhu cầu nhập khẩu sắn lát và tinh bột sắn từ Việt Nam, Thái Lan của Trung Quốc đang giảm, thay vào đó là tăng cường nhập khẩu từ Lào, Campuchia. Ngoài ra, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cũng cho biết, Trung Quốc đã tăng cường kiểm soát nghiêm ngặt các quy định về nhãn mác, bao bì, thông tin sản phẩm tinh bột sắn Việt Nam và siết chặt nhập khẩu qua kênh biên mậu.
Do đó, trong thời gian tới, các giao dịch xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn vẫn tiếp tục ảm đạm do nhu cầu từ phía Trung Quốc yếu. Tình trạng này được dự đoán sẽ kéo dài đến hết quý II năm nay.
Ông Lê Thanh Hòa – Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản nhận định, thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam là Trung Quốc đã xuất hiện thách thức mới, dẫn đến việc xuất khẩu nông sản gặp nhiều khó khăn.
Tương tự, việc Trung Quốc đẩy mạnh truy xuất nguồn gốc, tăng cường quản lý chất lượng, yêu cầu làm thông quan tại các cửa khẩu chỉ định… khiến nhiều ngành hàng nông sản xuất khẩu của nước ta lao đao. Chính vì vậy dự báo, trong thời gian tới, các giao dịch xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn vẫn tiếp tục ảm đạm do nhu cầu từ phía Trung Quốc yếu.
Ngoài ra, theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, để giảm áp lực thuế quan đối với xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, Trung Quốc đang áp dụng chính sách giảm giá đồng Nhân dân tệ, gây bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn qua kênh biên mậu.
Theo Danviet
Đau cho cà phê Việt Nam: Sản lượng thứ 2, giá... đứng cuối
Đứng top 2 thế giới nhưng xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm nay sụt giảm mạnh về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2018. Nguyên nhân là do những điểm yếu cố hữu của ngành vẫn chưa được khắc phục .
Giá bán giảm, giá xuất khẩu thấp
Theo thống kê của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát tiển nông thôn (Bộ NNPTNT), xuất khẩu cà phê tháng 6/2019 ước đạt 165.000 tấn, giá trị đạt 274 triệu USD; lũy kế xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2019 ước đạt 943.000 tấn và 1,6 tỷ USD, giảm 9,2% về khối lượng và giảm 19,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.
Thị trường cà phê trong nước cũng biến động giảm cùng xu hướng thị trường thế giới. Trong 6 tháng đầu năm 2019, giá cà phê trong nước giảm 500 - 800 đồng/kg.
Theo Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, do cà phê Việt Nam sản xuất chủ yếu phục vụ xuất khẩu, nên tình hình giao dịch trên sàn kỳ hạn có ảnh hưởng rất lớn đến giá cà phê trong nước. Có thời điểm đầu tháng 5, giá cà phê tụt xuống chỉ còn khoảng 29.000 đồng/kg khiến nông dân thua lỗ nặng.
Hiện, nguồn cung cà phê trong nước đã cạn kiệt và người dân không muốn bán với mức giá dưới 35.000 đồng/kg, giao dịch khá trầm lắng, ngoại trừ các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết từ trước đó.
Giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại của các nước khác. (ảnh: tư liệu)
Trước đó, theo báo cáo của Bộ Công Thương, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất vào thị trường Hàn Quốc với khối lượng lên tới 11.000 tấn trong 6 tháng đầu năm 2019. Song, tại xứ sở kim chi, giá cà phê Việt xuất khẩu chỉ đạt 1,8 USD/kg, thấp bằng một nửa giá cà phê nước này nhập khẩu. Trong khi Brazil là nước đứng thứ 2 về khối lượng với gần 10.600 tấn vào Hàn Quốc, nhưng giá xuất khẩu đạt 2,6 USD/kg, còn cà phê Colombia đứng thứ 3 với trên 9.000 tấn, giá bình quân đạt 3,2 USD/kg. Riêng Mỹ, mới chỉ xuất khẩu vào Hàn Quốc khoảng 3.000 tấn cà phê, nhưng giá xuất khẩu đạt mức gần 11 USD/kg.
Nguyên nhân khiến cà phê Việt Nam là thế mạnh tỷ đô, đứng top 2 thế giới, nhưng giá xuất khẩu lại thấp nhất so với các nước được lý giải là do cà phê Việt Nam chủ yếu xuất thô (80% lượng cà phê xuất khẩu đều là hàng thô). Cùng với đó, nguyên liệu thu hoạch không đáp ứng đủ tiêu chuẩn về độ chín, cà phê còn lẫn các tạp chất... dẫn đến chất lượng cà phê còn thấp.
Tìm đường sang Nhật
Theo thống kê từ Hải quan Nhật Bản, nhập khẩu cà phê của nước này tháng 5/2019 đạt 39.700 tấn, trị giá 12,32 tỷ yên (tương đương 114,5 triệu USD), tăng 0,3% về lượng, nhưng giảm 5,3% về trị giá so với tháng 5/2018. Tính chung 5 tháng đầu năm 2019, nhập khẩu cà phê của Nhật Bản đạt 198.800 tấn, trị giá 61,78 tỷ yên (tương đương 574,1 triệu USD), tăng 14,7% về lượng và tăng 6,8% về trị giá so với 5 tháng đầu năm 2018.
Đáng chú ý, nhập khẩu cà phê hạt rang hương (mã HS 090190100) của Nhật Bản tăng tới 785,5% về lượng và tăng 1.108,3% về trị giá so với tháng 5/2018. Song, lượng nhập khẩu ở mức thấp là 230 tấn, trị giá 5 triệu Yên (tương đương 46.000 USD) trong tháng 5/2019.
Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Nhật Bản 5 tháng đầu năm 2019 đạt mức 2.887 USD/tấn, giảm 6,9% so với 5 tháng đầu năm 2018. Trong đó, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Nhật Bản từ Việt Nam ở mức thấp nhất 1.690 USD/tấn, giảm 14,5% so với 5 tháng đầu năm 2018. Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Nhật từ Brazil đạt 2.786 USD/tấn, giảm 9,5%.
Điều đáng lo ngại là 5 tháng đầu năm 2019, Nhật Bản đẩy mạnh nhập khẩu cà phê từ Brazil, Columbia, Etiopia... trong khi giảm nhập khẩu từ Việt Nam, Indonesia, Peru và Lào. Hiện, Brazii là nguồn cung cà phê lớn nhất cho Nhật Bản với lượng đạt trên 76.000 tấn, trị giá 22,81 triệu USD trong 5 tháng đầu năm 2019, tăng 49,9% về lượng và tăng 35,6% về trị giá so với 5 tháng đầu năm 2018. Nhờ đó, thị phần cà phê Brazil trong tổng lượng nhập khẩu Nhật Bản tăng từ 29,3% trong 5 tháng đầu năm 2018, lên 38,3%.
Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn thứ 2 cho Nhật Bản trong 5 tháng đầu năm 2019, song nhập khẩu giảm 15,6% về lượng và 27,9% về trị giá. Theo đó, thị phần cà phê Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu Nhật Bản giảm từ 26,6% trong 5 tháng đầu năm 2018, xuống còn 19,5% thị phần trong 5 tháng đầu năm 2019.
Columbia là nguồn cung cà phê lớn thứ 3 cho Nhật Bản với tốc độ tăng trưởng 8,8% về lượng, tăng 1,3% về trị giá so với 5 tháng đầu năm 2018, đạt 26.600 tấn, trị giá 9,38 triệu USD.
Như trên có thể thấy, ngành cà phê Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh rất lớn với các đối thủ Brazil, Columbia, Etiopia... Do đó, để nâng cao sức cạnh tranh và gia tăng giá trị xuất khẩu, các chuyên gia nông nghiệp cho rằng ngành cà phê Việt Nam cần nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là đối với cà phê thành phẩm, đồng thời tham gia đầu tư sản xuất và chế biến sâu các sản phẩm cà phê chất lượng cao...
Theo Danviet
Thủy sản - "cứu cánh" cho tăng trưởng nông nghiệp Theo Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường, bên cạnh lâm sản, thủy sản sẽ là khu vực "bệ đỡ" cho mục tiêu tăng trưởng cũng như mục tiêu xuất khẩu (XK) toàn ngành nông nghiệp nửa cuối năm 2019. Gặp khó thị trường, vẫn bứt phá Theo thống kê của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT),...