Trung Quốc sẽ vô hiệu hóa các vũ khí lợi thế của Mỹ?
Các nhà hoạch định Trung Quốc rõ ràng đang cân nhắc làm thế nào để vô hiệu hóa những lợi thế trong các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ.
Tác giả James Steinberg là Giáo sư ngành Khoa học Xã hội, Các Vấn đề Quốc tế & Luật và là Hiệu trưởng Trường Công vụ và Dân sự Maxwell tại Đại học Syracuse. Michael O’hanlon là Học giả Cao cấp tại Trung tâm An ninh và Tình báo Thế kỷ 21 và Giám đốc Nghiên cứu Chương trình Chính sách Đối ngoại tại Viện Brookings. Cả hai người là đồng tác giả của cuốn sách Strategic Reassuarance and Resolve: U.S.-China Relations in the Twenty-first Century (Princeton University Press, 2014). Bài viết chúng tôi giới thiệu dưới đây lược dựa theo nội dung của cuốn sách này.
Tư duy theo cách thông thường
Chi tiêu quân sự hiện tại của Trung Quốc theo những đánh giá rộng rãi nhất- ở mức xấp xỉ 200 tỉ USD hàng năm, hay khoảng 2% GDP – vẫn chỉ chưa bằng một phần ba so với chi tiêu của Mỹ (hiện nay là 600 tỉ USD một năm, hay 3,5% GDP).
Ngân sách quân sự hàng năm của Bắc Kinh sẽ không thể bằng với mức của Washington cho tới tận năm 2030. Và thậm chí đến lúc đó, Hoa Kỳ vẫn có thể dựa vào kho dự trữ vũ khí hiện đại, kinh nghiệm chiến đấu trong nhiều năm và chi tiêu của đồng minh cũng như các đối tác (hiện nay vào khoảng 400 tỉ hàng năm).
Nhưng nếu Trung Quốc muốn xoa dịu những e sợ từ quốc tế và ra chứng minh rằng mục tiêu của họ là tự vệ chính đáng thay vì vươn sức mạnh ra bên ngoài và đe dọa các quốc gia khác, nước này có thể thực hiện nhiều bước đi mang tính xây dựng. Biết rằng chi tiêu của Mỹ không chỉ dành vào năng lực ở Châu Á mà còn trên toàn thế giới, sẽ là hợp lý khi cho rằng Trung Quốc có thể tự vệ thích đáng chỉ với khoảng một nửa số chi tiêu mà Hoa Kỳ bỏ ra.
Bằng cách giảm tỉ lệ gia tăng ngân sách quân sự trong những năm tới, Trung Quốc có thể cho thấy rằng mục tiêu của họ là chỉ tự vệ thay vì đạt được cân bằng tuyệt đối.
Đồng thời, Trung Quốc cũng có thể hạn chế mua các hệ thống vũ khí (như các loại tên lửa đạn đạo chống tàu tầm xa), những vũ khí mà mục đích sử dụng của chúng có vẻ trái ngược với khẳng định rằng nước này hoan nghênh sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.
Rộng hơn nữa, Trung Quốc có thể minh bạch hơn về ngân sách và chi tiêu quân sự, và làm sáng tỏ hơn những mục tiêu của học thuyết A2/AD của họ.
Về phần mình, Hoa Kỳ có thể từng bước chứng minh rằng quá trình hiện đại hóa lực lượng quân sự thông thường của nước này không nhằm đe dọa những lợi ích an ninh chính đáng của Trung Quốc. Một biểu hiện của sự kiềm chế như vậy là việc ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ đang suy giảm.
Nhưng trong việc này, Washington vẫn có thể làm được nhiều hơn, điển hình như làm rõ mục đích của khái niệm “tác chiến không- biển”, đổi tên nó thành “chiến dịch không- biển” (“air-sea operations”), đưa thêm các quân chủng khác tham gia vào chính sách châu Á của Hoa Kỳ bên cạnh hải quân và không quân, và thay đổi một số điểm mang “hàm ý công kích” trong học thuyết không-biển của họ, những điểm có vẻ trực tiếp đe dọa đến khả năng chỉ huy-kiểm soát cũng như các tài sản chiến lược của Trung Quốc với một đòn tấn công phủ đầu ngay từ đầu nếu xung đột diễn ra.
Để những thay đổi trong học thuyết như vậy đáng tin hơn, Hoa Kỳ có thể ngừng thu mua thêm tên lửa đạn đạo điều khiển từ xa và máy bay ném bom chiến lược, những vũ khí nếu mua với số lượng lớn có thể được xem như đe dọa đến sự tồn tại của Trung Quốc.
Bằng việc triển khai những khí tài thông thường một cách đa dạng mà không phụ thuộc quá nhiều vào sự leo thang sớm (bao gồm những căn cứ vững chắc hơn và những tài sản khó bị phá hủy hơn trong một cuộc tấn công), Washington có thể góp phần làm giảm khả năng xảy ra một cuộc chạy đua vũ trang Mỹ-Trung và nguy cơ nổ ra xung đột trong thời gian đầu của cuộc khủng hoảng.
Từ vũ trụ tới không gian ảo
Video đang HOT
Biện pháp xây dựng lòng tin nổi bật nhất trong Chiến tranh Lạnh là những thỏa thuận kiểm soát vũ khí chiến lược mà, dù gặp một số vấn đề, cuối cùng đã giúp Washington và Moscow tăng cường ổn định trước khủng hoảng và hạn chế chạy đua vũ khí hạt nhân tiến công và phóng vệ.
Vì nhiều lý do, những thỏa thuận kiểm soát vũ khí chính thức sẽ không phù hợp với quan hệ Mỹ-Trung hiện nay như với quan hệ Mỹ-Liên Xô, thậm chí trong một số trường hợp có thể phản tác dụng. Tuy nhiên, có một số giải pháp trong lĩnh vực vũ khí đặc biệt có thể làm giảm nghi ngờ giữa hai bên và khả năng leo thang xung đột vô ý hay xung đột quá sớm.
Lấy ví dụ về vấn đề không gian vũ trụ. Biết được sự phụ thuộc sâu sắc của Hoa Kỳ vào vệ tinh cho cả mục đích quân sự lẫn dân sự, các nhà hoạch định Trung Quốc rõ ràng đang cân nhắc làm thế nào để vô hiệu hóa những lợi thế mà vũ trụ mang lại cho các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ.
Nhưng chính vì sự phụ thuộc đó, Hoa Kỳ sẽ buộc phải hành động mạnh mẽ và nhanh chóng nếu tin rằng những vệ tinh của mình đang gặp nguy hiểm, khiến cho khó có thời gian để tìm bằng chứng hay các biện pháp ngoại giao để ngăn chặn khủng hoảng.
Vì lý do đó, Washington bắt buộc phải có các biện pháp tăng cường an ninh cho những tài sản vũ trụ của mình, và những biện pháp này cũng sẽ được Bắc Kinh chú ý hơn, do dần dần họ cũng sẽ nâng cao năng lực vũ trụ của mình. Không có gì đảm bảo được sự an toàn tuyệt đối trong vũ trụ, do mỗi vệ tinh dân sự điều khiển được đều có khả năng phá hủy một vệ tinh khác.
Nhưng bằng việc áp dụng các biện pháp như thỏa thuận giữ khoảng cách an toàn xung quanh các vệ tinh, các chuẩn mực hành xử vẫn có thể được thiết lập nhằm hợp thức hóa việc sử dụng vũ lực để tự vệ mà không bị coi là khiêu khích. Ở đây sự linh hoạt cũng là quan trọng, vì Hoa Kỳ sẽ cần có những hệ thống vũ trụ và trên không có số dư dự phòng để bù đắp cho tình trạng dễ bị tổn thương không thể tránh khỏi.
Tương tự, Hoa Kỳ và Trung Quốc, và lý tưởng nhất là cùng các quốc gia khác, có thể đồng ý thông qua một hiệp ước ngăn cấm va chạm hoặc các vụ nổ có thể sinh ra những mảnh vỡ trên độ cao xấp xỉ 1.000 dặm trong không gian, tại vùng mà những vệ tinh tầm thấp thường xuyên hoạt động.
Khu vực này đã có nhiều mảnh vỡ đến mức có thể làm cho những hoạt động vũ trụ trong tương lai trở nên nguy hiểm, và do những thử nghiệm hệ thống phòng thủ tên lửa thường diễn ra ở cao độ thấp hơn, thỏa thuận như vậy sẽ mang lại nhiều lợi ích mà gần như không có bất lợi nào.
Cả hai bên cũng có thể thỏa thuận không phát triển hoặc thử nghiệm các vũ khí chống vệ tinh hoặc các vũ khí không đối đất. Tất nhiên, chỉ hạn chế thử nghiệm sẽ không loại trừ khả năng sử dụng các loại vũ khí này, nhưng chúng có thể làm giảm đi mức tự tin vào chúng của mỗi bên, cũng như làm giảm sự sẵn lòng đầu tư và phụ thuộc vào những vũ khí đó, vốn được coi là có thể gây bất ổn lớn trong khi chưa chắc đã mang lại hiệu quả rõ rệt.
Còn nữa !
Theo Vietnamnet
Thủ tướng: Thúc đẩy xây dựng lòng tin để ngăn ngừa sự cố trên Biển Đông
Ngày 13/11/2014, tại Nay Pyi Taw, các nhà Lãnh đạo ASEAN tham dự Hội nghị Cấp cao với các Đối tác Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hội nghị Cấp cao ASEAN 3 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự, có phát biểu quan trọng tại các hội nghị.
Tại các Hội nghị, các Nhà Lãnh đạo ASEAN và Đối tác nhất trí tiếp tục tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác, đồng thời khẳng định coi trọng quan hệ hợp tác với ASEAN, cam kết tiếp tục hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng vào năm 2015 cũng như triển khai Tầm nhìn sau 2015, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong tăng cường cấu trúc hợp tác khu vực đóng góp cho mục tiêu chung về hoà bình, an ninh và phát triển.
Lãnh đạo các nước cũng dành thời gian trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, trong đó có vấn đề Biển Đông. Nhấn mạnh hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không là lợi ích và mối quan tâm chung của các nước trong và ngoài khu vực; theo đó cần bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử COC.
ASEAN và Trung Quốc với yêu cầu đảm bảo an ninh ở Biển Đông
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 17, các nhà Lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã tái khẳng định cam kết tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc. Các nhà Lãnh đạo hai bên hài lòng ghi nhận những kết quả quan trọng đạt được trong triển khai Kế hoạch hành động 2011-2015 triển khai quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc vì hòa bình và thịnh vượng, nhất là những thành tựu trên tất cả 11 lĩnh vực ưu tiên, bao gồm nông nghiệp, công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư, phát triển đồng lưu vực sông Mekong, giao thông, năng lượng, văn hóa, du lịch, y tế công cộng và môi trường.
Các nhà Lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc hoan nghênh những tiến triển hợp tác và thảo luận thực chất về sáng kiến và đề xuất của Trung Quốc trong khuôn khổ 2 7, theo đó nhất trí làm sâu sắc hơn nữa hợp tác hiện có và mở rộng các lĩnh vực hợp tác trong khuôn khổ nói trên. Hai bên ghi nhận những bước phát triển kinh tế nhanh chóng trong năm qua, và đề nghị tiếp tục chú trọng hơn nữa hợp tác trên các lĩnh vực trọng tâm, thực hiện hiệu quả các cam kết trong khuôn khổ Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN -T rung Quốc (ACFTA), phấn đấu đạt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại lên 500 tỷ USD năm 2015. ASEAN đánh giá cao việc ASEAN và Trung Quốc cùng với các đối tác khác thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc cũng dành thời gian trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, trong đó có vấn đề Biển Đông. Nhấn mạnh hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không là lợi ích và mối quan tâm chung của các nước trong và ngoài khu vực; theo đó cần bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử COC.
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá tích cực quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc với những thành tựu quan trọng đã đạt được. Đánh giá cao sự ủng hộ của Trung Quốc đối với vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình và các diễn đàn do ASEAN sáng lập. Việt Nam ủng hộ việc duy trì và tăng cường hơn nữa tham vấn và đối thoại giữa hai bên về DOC và COC.
Để đưa quan hệ hai bên tiếp tục phát triển vững chắc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị ASEAN và Trung Quốc tiếp tục nỗ lực phát triển quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là đẩy mạnh các chương trình hợp tác trong khuôn khổ Kế hoạch hành động 2011-2015, đẩy mạnh các nỗ lực nhằm tạo môi trường hoà bình, ổn định, an ninh và hợp tác ở khu vực. Để đạt được điều này, việc tăng cường hiểu biết, củng cố và làm sâu sắc niềm tin chiến lược giữa ASEAN và Trung Quốc là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng. Tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư nhằm đạt mục tiêu 500 tỷ USD kim ngạch thương mại hai chiều vào năm 2015. Tăng cường hợp tác kết nối giữa ASEAN và Trung Quốc. Đề nghị Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ ASEAN triển khai Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN, góp phần thúc đẩy liên kết, kết nối ASEAN và Đông Á. Theo đó, hoan nghênh đề xuất của Trung Quốc lập Ngân hàng Phát triển Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) và mong rằng Ngân hàng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong tiến trình kết nối này của ASEAN. Trung Quốc cần tiếp tục ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong các diễn đàn ASEAN sáng lập, cũng như vai trò trung tâm của ASEAN trong một cấu trúc khu vực đang định hình; cùng xử lý và ứng phó với những thách thức toàn cầu.
Về vấn đề Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông là lợi ích và quan tâm chung của các nước trong và ngoài khu vực. Do đó, các bên liên quan cần nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước luật biển của Liên hợp quốc năm 1982; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực; thực hiện đầy đủ và nghiêm túc Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhất là thực hiện Điều 5 của DOC về kiềm chế, không có hành động làm phức tạp thêm, gia tăng căng thẳng, hay thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông.
Sự hợp tác và phát triển thịnh vượng chỉ diễn ra thuận lợi trong môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực trên cơ sở bảo đảm và củng cố được lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, bao gồm cả lòng tin chiến lược trong bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở khu vực.
Hoan nghênh những tiến bộ đạt được trong tham vấn vừa qua giữa ASEAN và Trung Quốc, trong đó có việc cam kết sẽ đề ra các biện pháp cụ thể và cơ chế nhằm bảo đảm tuân thủ Tuyên bố DOC, nhất là Điều 5 của Tuyên bố; cũng như về việc sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử (COC), thống nhất xây dựng và triển khai ngay các biện pháp "thu hoạch sớm", như lập đường dây nóng giữa hai bên nhằm thúc đẩy xây dựng lòng tin, ngăn ngừa sự cố, căng thẳng; đẩy mạnh thương lượng nhằm sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
ASEAN và Hoa Kỳ hợp tác chống biến đổi khí hậu
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN - Hoa Kỳ lần thứ 2, các Nhà Lãnh đạo tập trung kiểm điểm những tiến triển trong quan hệ đối thoại ASEAN - Hoa Kỳ, đánh giá tích cực nhiều hoạt động hợp tác đang được triển khai hiệu quả trên các lĩnh vực hợp tác về chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ.
Hai bên đánh giá cao tiến triển tích cực và thực chất trong quan hệ hợp tác, tạo cơ sở hướng tới đối tác chiến lược ASEAN - Hoa Kỳ. Hoa Kỳ khẳng định tiếp tục hỗ trợ ASEAN về xây dựng Cộng đồng, kết nối, thu hẹp khoảng cách phát triển và nâng cao năng lực; khẳng định tiếp tục tập trung nguồn lực triển khai Kế hoạch Hành động giai đoạn 2011-2015. Hoa Kỳ cũng khẳng định chính sách gắn kết lâu dài với Đông Á và ASEAN, coi ASEAN là ưu tiên chiến lược và một trụ cột trong chính sách đối ngoại của mình ở khu vực; coi trọng các khuôn khổ đa phương khu vực như ARF, EAS, ADMM , APEC, TPP..., ủng hộ xây dựng cấu trúc khu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm; nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa ASEAN và Hoa Kỳ, mong muốn hai bên phối hợp có trách nhiệm trong các cơ chế hợp tác khu vực, giải quyết hiệu quả các thách thức. Hoa Kỳ cũng khẳng định coi trọng hợp tác Hạ nguồn Mekong trong khuôn khổ Sáng kiến Hạ nguồn Sông Mekong (LMI).
ASEAN hoan nghênh chính sách của Hoa Kỳ tiếp tục gắn kết với Châu Á-Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng; đánh giá cao sự ủng hộ và hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho ASEAN trong nỗ lực xây dựng Cộng đồng và giữ vai trò chủ đạo ở khu vực. ASEAN mong muốn Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ ASEAN xây dựng thành công Cộng đồng vào năm 2015, triển khai và dành ưu tiên cao cho tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, và đầu tư; đánh giá cao hợp tác giữa Hoa Kỳ và các nước Mekong trong hợp tác Hạ nguồn Mekong trong khuôn khổ LMI.
Về kinh tế, hai bên cam kết tăng cường đối thoại về thương mại và đầu tư, tăng cường thực hiện Sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng (E3) và Thỏa thuận Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA), là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho ASEAN và Hoa Kỳ cùng các đối tác khác tiến hành đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Hội nghị cũng đã thông qua Tuyên bố chung ASEAN - Hoa Kỳ về hợp tác chống biến đổi khí hậu với mục đích tăng cường hợp tác hai bên bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu, cũng như đóng góp tích cực vào các nỗ lực toàn cầu về chống biến đổi khí hậu.
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ ASEAN đánh giá cao tầm quan trọng của quan hệ đối tác ASEAN - Hoa Kỳ và những kết quả hợp tác đã đạt được trong thời gian qua giữa hai bên; đánh giá cao sự ủng hộ và hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho ASEAN trong nỗ lực xây dựng Cộng đồng và giữ vai trò chủ đạo ở khu vực.
Để đưa quan hệ ASEAN và Hoa Kỳ tiếp tục phát triển, Thủ tướng nhấn mạnh Việt Nam chia sẻ định hướng và những biện pháp trọng tâm, gồm: Tiếp tục triển khai hiệu quả Kế hoạch Hành động ASEAN - Hoa Kỳ giai đoạn 2011-2015, tập trung nguồn lực đẩy mạnh hợp tác toàn diện, ưu tiên hỗ trợ ASEAN xây dựng thành công Cộng đồng vào năm 2015, gia tăng kết nối, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục, giao lưu nhân dân và giải quyết các thách thức chung như an ninh năng lượng, quản lý nguồn nước bền vững, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai, bệnh dịch, chống tội phạm xuyên quốc gia. Tiếp tục triển khai và dành ưu tiên cao cho tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, và đầu tư. Đề nghị hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả Sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng (E3) và Thỏa thuận Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA), tăng cường tham vấn giữa các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho ASEAN và Hoa Kỳcùng các đối tác khác tiến hành đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao việc Hoa Kỳ ủng hộ và tích cực tham gia vào triển khai Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN. Đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục quan tâm trợ giúp ASEAN trong triển khai các dự án kết nối cơ sở hạ tầng trong lục địa ASEAN, đặc biệt tại Tiểu vùng Mekong, và các dự án kết nối cảng biển, kết nối công nghệ thông tin và truyền thông, năng lượng. Khuyến khích doanh nghiệp hai bên tham gia quá trình thực thi Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN với hình thức phù hợp như Đối tác Công-Tư (PPP). Đánh giá cao hợp tác giữa Hoa Kỳ và các nước Mê Công trong khuôn khổ Sáng kiến Hạ nguồn Sông Mê Công (LMI) cũng như Sáng kiến Hạ nguồn Sông Mekong - Những người bạn (FLM). Đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục dành quan tâm và ưu tiên cho thực hiện Kế hoạch Hành động LMI 2011-2015, gắn kết hợp tác LMI với các chương trình hợp tác về kết nối và thu hẹp khoảng cách phát triển của ASEAN ở tiểu vùng Mekong cũng như hỗ trợ các nước trong tiểu vùng nâng cao năng lực quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nước sông Mekong.
Vấn đề Biển Đông tiếp tục được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh tại Hội nghị Cấp cao ASEAN - Hoa Kỳ.
ASEAN và 3 nước Đông Bắc Á - tuân thủ các giá trị và chuẩn mực chung
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 3 lần thứ 17, Lãnh đạo các nước ASEAN và ba Đối tác Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc hoan nghênh và đánh giá cao hiệu quả hợp tác ASEAN 3 thời gian qua và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường và mở rộng hơn nữa quan hệ đối tác ASEAN 3 vì hòa bỉnh, thịnh vượng ở khu vực, hướng tới mục tiêu xây dựng một cộng đồng Đông Á trong tương lai, trong đó ASEAN đóng vai trò trung tâm của cấu trúc khu vực. Để đạt được mục tiêu này, các nước nhấn mạnh mục tiêu trước mắt là thực hiện hiệu quả Kế hoạch công tác ASEAN 3 giai đoạn 2013-2017, và đẩy mạnh nghiên cứu triển khai các khuyến nghị của Nhóm tầm nhìn Đông Á II (EAVG-II) trên các lĩnh vực của hợp tác chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Các nhà Lãnh đạo ASEAN và 3 đối tác Đông Bắc Á tái khẳng định cam kết ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đang nổi lên, và nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy tuân thủ các giá trị và chuẩn mực chung, các nguyên tắc luật pháp. Nhất trí tiếp tục đẩy mạnh ưu tiên thực hiện các chương trình hợp tác đã thỏa thuận, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và tài chính; duy trì đà phát triển kinh tế ngày một tăng trong khu vực, đồng thời thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; hướng tới sớm hoàn tất đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (RCEP); tăng cường hợp kinh tế vĩ mô; bảo đảm cân bằng giữa an ninh năng lượng với phát triển kinh tế và bảovệ môi trường; bảo đảm an ninh lương thực; ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lý thiên tai, dịch bệnh; đồng thời tiếp tục tăng cường hợp tác giáo dục, phòng chống dịch bệnh xuyên biên giới, tăng cường kết nối, hợp tác du lịch, dịch vụ công, hợp tác thông tin và truyền thông, hợp tác khoa học công nghệ, và thúc đẩy giao lưu nhân dân...
Về vấn đề Biển Đông, các nhà Lãnh đạo nhấn mạnh hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không là lợi ích và mối quan tâm chung của các nước trong và ngoài khu vực; theo đó cần bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử COC.
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng ASEAN 3 đã có những đóng góp rất ý nghĩa vào tăng cường liên kết khu vực Đông Á cũng như trong hợp tác về các thách thức an ninh phi truyền thống ở khu vực. Những kết quả nổi bật đật được khẳng định ASEAN 3 là một cơ chế hợp tác năng động và hiệu quả.
Để đưa hợp tác ASEAN 3 đi vào chiều sâu, thực chất hơn, đặt nền tảng vật chất cho cộng đồng ở Đông Á trong tương lai, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị ASEAN 3 cần tập trung nguồn lực tiếp tục triển khai Kế hoạch Công tác hợp tác ASEAN 3 sửa đổi giai đoạn 2013-2017, đóng góp đầy đủ cho Quỹ Hợp tác ASEAN 3 để hỗ trợ triển khai hiệu quả hơn các dự án hợp tác. Đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, tạo cơ sở thiết lập FTA khu vực Đông Á trong tương lai. Theo đó, cần đẩy mạnh đàm phán Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đúng lộ trình vào năm 2015. Tiếp tục tăng cường hợp tác ổn định tài chính vĩ mô thông qua triển khai hiệu quả Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai, mở rộng Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á và Quỹ Đầu tư Bảo đảm Tín dụng; vận hành hiệu quả Văn phòng nghiên cứu Kinh tế vĩ mô ASEAN 3. Triển khai hiệu quả và toàn diện Tuyên bố về Quan hệ Đối tác ASEAN 3 về Kết nối và Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN, tạo cơ sở cho liên kết và kết nối rộng lớn trong toàn khu vực Đông Á, đặc biệt về cơ sở hạ tầng, giao thông. Đẩy mạnh hợp tác các vấn đề toàn cầu như an ninh năng lượng và lương thực, phòng chống dịch bệnh, quản lý thiên tai, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, trong đó có việc sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên nước.
Malaysia đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2015 Chiều 13/11/2014, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã có cuộc gặp với Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN (ABAC) nhằm đối thoại và trao đổi về các biện pháp nâng cao đóng góp của ABAC trong việc giúp ASEAN hoạch định chính sách, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng ASEAN và liên kết khu vực.
Kết thúc các Hội nghị Cấp cao, tối cùng ngày đã diễn ra Lễ bế mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 25 và các Cấp cao giữa ASEAN với Đối tác.
Tại buổi lễ, nước Chủ tịch ASEAN năm 2014, Myanmar, đã chuyển giao cương vị Chủ tịch ASEAN 2015 cho Malaysia. Phát biểu tiếp nhận vai trò nước Chủ tịch ASEAN 2015, Thủ tướng Malaysia Najib Razak khẳng định Malaysia sẽ tiếp tục phối hợp cùng các nước ASEAN thúc đẩy các mục tiêu, trọng tâm và ưu tiên của ASEAN trong năm 2015, nhất là chuẩn bị cho Cộng đồng ASEAN ra đời vào ngày 31/12/2015.
P.Thảo
Theo Dantri
Lòng tin ở Thái tăng vọt sau đảo chính Lòng tin của người tiêu dùng Thái đã tăng vọt trong tháng 5 với hy vọng chính quyền quân sự mới sẽ thiết lập trật tự sau nhiều tháng hỗn loạn chính trị, đe dọa đẩy kinh tế vào suy thoái, Reuters đưa tin. Quân đội đã lật đổ chính phủ của Thủ tướng Yingluck Shinawatra hôm 22/5 sau những cuộc biểu tình...