Trận thủ đô Trung Quốc thất thủ trước liên quân phương Tây
Quyết định sai lầm của Từ Hi Thái Hậu cuối thời nhà Thanh khiến Trung Quốc đối đầu với liên quân 8 nước, để rồi phải chịu khoản chiến phí khổng lồ, khiến cuộc sống người dân thêm lầm than.
Quân phương Tây với vũ khí vượt trội đánh bại Nghĩa Hòa Đoàn và quân Thanh triều.
Cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, triều đình nhà Thanh trở nên bất lực trước sự can thiệp của nước ngoài, đặc biệt là phương Tây. Đó là thời điểm phong trào Nghĩa Hòa Đoàn trỗi dậy, với khẩu hiệu ủng hộ Thanh triều, tiêu diệt người Tây.
Nội bộ nhà Thanh khi đó một phần ủng hộ Nghĩa Hòa Đoàn, một phần tỏ ra nhún nhường phương Tây để Từ Hi Thái Hậu có thể tiếp tục nắm quyền. Do đó, nhà Thanh làm ngơ để Nghĩa Hòa Đoàn tập hợp lực lượng, sát hại người nước ngoài, chủ yếu ở khu vực xung quanh Bắc Kinh.
Tuyên chiến phương Tây
Đến giữa năm 1900, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn trở nên mạnh mẽ với hơn 100.000 người. Đó là thời điểm mà các đại thần trong triều Thanh truyền tai nhau về khả năng phương Tây muốn phế truất Từ Hi Thái Hậu, chuyển giao quyền lực cho người khác.
Đại thần nhà Thanh khi đó là Vinh Lộc đã mật báo lên Hoàng Thái Hậu. Trong bối cảnh người phương Tây tùy nghi hoạt động ở Trung Quốc, không tuân theo mệnh lệnh của chính quyền phong kiến, Thái Hậu càng tin việc mình bị phế truất chỉ còn là vấn đề thời gian.
Từ Hi Thái hậu khi đó nhận được sự ủng hộ của các đại thần trong triều, cam kết tận trung đến cùng. Thái hậu được cho là đã nói rằng: Chiến đấu cũng chết, không chiến đấu cũng chết, đợi cũng chết, vậy thì do dự gì nữa mà không đánh.
Theo các nhà sử học, thông tin phương Tây muốn lật đổ Từ Hi Thái Hậu thực chất không chính xác. Chỉ là nhận định một chiều từ một tờ báo bằng tiếng Anh xuất bản ở Thượng Hải. Người phương Tây khi đó thực chất đã được trao rất nhiều quyền lợi kể từ Chiến tranh Nha phiến.
Lính thủy đánh bộ Mỹ ở Bắc Kinh.
Chính quyền nhà Thanh khi đó gần như chỉ còn là bù nhìn không nắm thực quyền. Nhưng với quyết định ngả hẳn về Nghĩa Hòa Đoàn, 100.000 quân Thanh đã hợp sức cùng hơn 100.000 thành viên Nghĩa Hòa Đoàn nhằm quét sạch bóng dáng người nước ngoài ở Bắc Kinh.
Liên quân 8 nước xâu xé Trung Quốc
Trước khi quân nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn tiến vào Bắc Kinh, lực lượng nước ngoài đã được tăng cường ở khu tòa công sứ và các cơ sở khác của người phương Tây.
Ngày 31.5.1900, một lực lượng viễn chinh gồm 56 lính Thủy quân lục chiến Mỹ được triển khai đến Bắc Kinh. Họ cùng với khoảng 350 lính ngoại quốc khác hình thành một vành đai phòng thủ bên ngoài. Tòa công sứ khi đó có 473 nhân viên ngoại giao phương Tây trú ẩn và sau đó là hàng ngàn người Trung Quốc theo Công giáo.
Từ đầu tháng 6.1900, quân nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn bắt đầu tấn công dữ dội vào khu tòa công sứ. Thủy quân lục chiến Mỹ cùng binh sĩ các nước khác cố gắng chống cự, đẩy lùi nhiều cuộc tấn công.
Video đang HOT
Thủy quân lục chiến Mỹ và Đức khi đó trấn giữ tường thành Tartar cao hơn 13 mét ở mạn phía nam của tòa công sứ. Đây được coi là nơi trọng yếu nhất vì từ đây có thể quan sát rõ ràng tình hình trên chiến trường. Quân Thanh và Nghĩa Hòa Đoàn liên tục dùng đại bác và các loại hỏa lực công phá vị trí này, đồng thời dựng lên một hệ thống chướng ngại vật ngày càng áp sát tường thành.
Ngày 2.7, lực lượng phòng thủ của Đức bị đẩy lùi. Có thời điểm quân Trung Quốc chỉ cách tường thành vài mét. Trong tình thế nước sôi lửa bỏng, lính thủy đánh bộ Mỹ mở cuộc phản công.
Nhóm binh sĩ phương Tây quyết tử thủ ở tòa công sứ.
2 giờ sáng hôm sau, dưới trời mưa tầm tã, đại úy John Twiggs Myers dẫn đầu lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ cùng một nhóm nhỏ binh sĩ Anh, Nga tấn công vào các vị trí của quân nổi dậy bên ngoài tường thành.
Choáng váng vì bị tấn công bất ngờ, quân nổi dậy tuy đông nhưng chỉ là những thành phần ô hợp, nhanh chóng vỡ trận, hò nhau tháo chạy.
Trong suốt thời gian 55 ngày bị vây hãm, Thủy quân lục chiến Mỹ cùng quân đội các nước khác đã cầm cự trước những cuộc tấn công liên tiếp của Nghĩa Hòa Đoàn và quân triều đình trong môi trường tác chiến đô thị.
Họ hiểu rằng nếu thất bại, chính bản thân các binh sĩ và người phương Tây trong khu tòa công sứ có thể sẽ bị mất mạng.
Trong khi đó, lực lượng liên hợp bao gồm quân đội 8 nước lên tới 55.000 người, trong đó lớn nhất là Nhật Bản (20.300 người) đổ bộ vào đất liền và chiếm được Thiên Tân, thành phố cảng phía Đông Bắc Trung Quốc vào ngày 14.7.
Đến ngày 4.8, khoảng một nửa trong số đội quân liên hợp bắt đầu hành trình dài 120km tiến đến Bắc Kinh. Đối đầu trên đường đi là 70.000 quân triều đình và 50-70.000 quân Nghĩa Hòa Đoàn. Đội quân liên hợp dù quân số ít hơn nhưng rất thiện chiến, chỉ gặp phải những ổ kháng cự nhỏ.
Lực lượng liên quân 8 nước duyệt binh ở Bắc Kinh sau khi đánh bại quân triều đình.
Đến ngày 14.8, đội quân liên hợp mở cuộc tấn công quyết định vào Bắc Kinh. Quân Thanh và Nghĩa Hòa đoàn thất thủ chỉ trong vòng chưa đầy một ngày. Đến chiều cùng ngày, binh sĩ Anh là những người đặt chân đến tòa công sứ đầu tiên.
Về phần Từ Hi Thái Hậu, bà đã cùng đoàn tùy tùng rời Tử Cấm Thành đến Tây An lánh nạn. Người ta nhìn thấy Thái Hậu mặc trang phục của một nông dân cùng Hoàng đế Quang Tự trèo lên ba chiếc xe bò bằng gỗ rời khỏi Bắc Kinh, theo cuốn sách Vây hãm Bắc Kinh: Chuyện về phong trào Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900, xuất bản ở Anh năm 1999.
Từ Hi Thái Hậu nhường quyền kiểm soát Bắc Kinh cho phương Tây trong hơn một năm, cho đến khi ký kết hòa ước vào năm 1901.
Hòa ước bao gồm các điều khoản có lợi cho phương Tây, buộc nhà Thanh phải bồi thường 450 triệu lạng bạc trong 39 năm, với mức lãi suất 4%/năm. Con số 450 triệu tương đương với dân số Trung Quốc thời điểm đó, tức là mỗi người phải trả 1 lạng.
Tính ra Trung Quốc phải trả 668 triệu lạng bạc từ năm 1901-1939, tương đương 61 tỷ USD theo tỷ giá năm 2010. Thất bại năm 1900 trước liên quân 8 nước gây ra những hậu quả sâu rộng, trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của nhà Thanh sau đó 12 năm.
2 vạn quân Anh đại phá 20 vạn quân Thanh, TQ ôm nỗi hận "hèn yếu"
Triều đình nhà Thanh giai đoạn thế kỷ 18 trở nên yếu đuối trước sự trỗi dậy của phương Tây, đánh dấu thời kỳ mà chính người Trung Quốc gọi là "ô nhục" khi 20 vạn quân Thanh không đánh lại nổi chưa tới 2 vạn quân Anh, chủ yếu là Hải quân Hoàng gia.
Hải quân Hoàng gia Anh với sức mạnh vượt trội đã đè bẹp quân nhà Thanh.
Trong giai đoạn thế kỷ 17-18, nhu cầu ở châu Âu đối với hàng hóa Trung Quốc tăng vọt, đặc biệt là lụa, đồ sứ và trà,tạo ra sự mất cân bằng thương mại nghiêm trọng. Ngược lại, Trung Quốc thời phong kiến nhà Thanh duy trì bế quan tỏa cảng, không cho thương nhân nước ngoài đến buôn bán.
Để ngăn chặn tình trạng trên, đế quốc Anh chủ trương trồng cây thuốc phiện ở Ấn Độ rồi bán cho thương lái Trung Quốc ở bờ biển để tuồn thuốc phiện vào Trung Quốc đại lục. Điều này giúp đế quốc Anh thu lại một lượng lớn vàng bạc đã dùng để mua hàng hóa Trung Quốc.
Đồng thời, số người nghiện thuốc phiện ở Trung Quốc ngày càng tăng, phụ thuộc vào nguồn hàng do Anh cung cấp, làm suy thoái chính quyền phong kiến nhà Thanh từ bên trong.
Chiến tranh nha phiến
Từ đầu năm 1800, lượng thuốc phiện nhập vào Trung Quốc chỉ 200 tấn, nhưng 39 năm sau, con số này tăng lên tới hơn 2.500 tấn. Điều này khiến nhà Thanh mất một lượng lớn tiền của trong khi tỉ lệ người dân phụ thuộc vào thuốc phiện ngày càng tăng.
Đến lúc này, Hoàng đế nhà Thanh khi đó là Đạo Quang mới ra lệnh cấm sử dụng và buôn bán thuốc phiện. Tướng nhà Thanh là Lâm Tắc Từ đã tịch thu 20.000 thùng thuốc phiện (khoảng 1.200 tấn) của các thương nhân Anh ở Quảng Đông mà không bồi thường. Điều này khiến đế quốc Anh nổi giận, cho rằng, việc nhà Thanh bất ngờ áp dụng quy định khắt khe là một sự tráo trở đối với các thương nhân.
Hải quân Anh chiếm ưu thế toàn diện trên biển.
Giao tranh giữa hải quân Hoàng gia Anh và quân nhà Thanh diễn ra lẻ tẻ từ giữa năm 1939 nhưng chỉ thực sự biến thành cuộc chiến quy mô lớn khi lực lượng viễn chinh Anh bao gồm 15 tàu chở quân, 4 tàu pháo chạy bằng động cơ hơi nước và 25 tàu nhỏ hơn có mặt ở ngoài khơi Quảng Đông.
Hải quân Hoàng gia Anh lên kế hoạch chiếm đảo Chu San mà mục tiêu chính là kiểm soát cảng Đình Hải, mở đường cho các hoạt động quân sự của Anh ở Trung Quốc.
Cuộc chiến diễn ra chóng vánh trong hai ngày 5-6.7.1840, khi 5 tàu chiến Anh đánh chìm 13 tàu chiến Trung Quốc, mở đường để 3.650 binh sĩ Anh đổ bộ lên đảo. Thương vong bên phía Anh chỉ duy nhất một người.
Chiến thắng này mở đường để Hải quân Hoàng gia Anh tấn công Quảng Châu. Nhưng quân Thanh đã lường trước, cho bố trí lực lượng dày đặc khiến binh sĩ Anh không đổ bộ được.
Hải quân Anh liền thay đổi chiến thuật, lấy Hong Kong làm bàn đạp chuẩn bị lực lượng. Một năm sau, quân Anh tiến lên phương Bắc, trực chỉ hướng cửa sông Trường Giang.
Năm 1842, Hải quân Hoàng gia Anh mở chiến dịch quân sự quy mô lớn nhất với 25 tàu chiến và 10.000 người, nhằm kiểm soát Trường Giang. Chỉ trong vòng một tháng, quân Anh chiếm Thượng Hải, Chiết Giang, làm gián đoạn tuyến đường vận lương, khiến nhà Thanh kiệt quệ, buộc phải đàm phán.
Tàu chiến Trung Quốc bị đánh chìm trong Chiến tranh Nha phiến.
Chiến tranh nha phiến chính thức kết thúc vào ngày 29.8.1842 với hòa ước Nam Kinh. Nhà Thanh bồi thường chiến phí cho Anh, mở 11 cảng và cho truyền đạo tự do. Hương Cảng (Hong Kong) và vùng cửa sông Châu Giang được chuyển giao cho người Anh trong 99 năm và lợi ích của Anh phải được đặt lên hàng đầu khi Trung Quốc cân nhắc giao thương với bất kỳ quốc gia phương Tây nào khác.
Vì đâu người Anh "vượt mặt" Trung Hoa?
Chính quyền phong kiến nhà Thanh đã ngủ quên trong thời gian dài, tụt hậu cả về khoa học và kỹ thuật trong khi kiểm soát vùng đất đai rộng lớn.
Khi chiến tranh nổ ra, quân Thanh cũng được trang bị súng nhưng tốc độ bắn thấp, độ chính xác thấp hơn nhiều so với súng đá lửa nòng trơn của quân Anh.
Đó là chưa kể chỉ có khoảng một nửa quân nhà Thanh được trang bị súng trong cuộc chiến. Phần còn lại vẫn sử dụng những vũ khí truyền thống như gươm, giáo, cung tên. Cung tên có ưu điểm bắn nhanh và chính xác hơn súng, nhưng độ sát thương không cao bằng nên binh sĩ Anh khi đó hầu hết chỉ bị thương.
Ngược lại, quân Anh về sau đều được trang bị lưỡi lê đi kèm với súng đá lửa nòng trơn. Điều này giúp binh sĩ Anh có thể giáp lá cà với kẻ thù ngay khi quân địch xông tới ở cự ly gần.
Chiến thuật của quân Anh cũng vượt trội hoàn toàn do kế thừa những ưu việt kể từ thời Napoleon. Đội hình chiến đấu của quân Anh bao gồm những người có kinh nghiệm chinh chiến lâu năm ở Ấn Độ nên rất kiên cường, chiến đấu theo hàng ngũ và không hề rút lui.
Quân Anh tinh nhuệ và máu lửa hơn quân Thanh.
Ở trên biển, cục diện cũng không khác biệt. Pháo của quân nhà Thanh cồng kềnh, nặng nề trong khi độ chính xác không cao. Ngược lại, tàu chiến Anh trang bị nhiều pháo hơn, di chuyển linh hoạt hơn, không cho đối phương có cơ hội áp sát.
Các tàu chạy bằng hơi nước như HMS Nemesis còn có khả năng chạy ngược gió và thủy triều trong khi, một tàu như vậy mang nhiều pháo hơn toàn bộ một hạm đội tàu chiến thô sơ của nhà Thanh.
Hải quân Hoàng gia Anh biết rõ lợi thế của mình nên chỉ tập trung tấn công những hòn đảo, thành phố nằm sát biển để tận dụng sự yểm trợ của tàu chiến, nhằm làm giảm thương vong xuống mức tối thiểu.
Có thể nói, ở thời điểm cao trào nhất trong chiến tranh nha phiến, hải quân Anh chỉ huy động 2 vạn người, 37 tàu chiến trong khi bên phía nhà Thanh là 20 vạn cùng vô số tàu pháo thô sơ. Chênh lệch lực lượng là vậy nhưng nhà Thanh cũng không tận dụng được ưu thế về số lượng. Các sử gia phương Tây ước tính chỉ có 69 binh sĩ Anh thiệt mạng trong cuộc chiến, còn tổn thất của quân Thanh lên tới 20.000 người.
Chiến tranh nha phiến được giới phân tích đánh giá mang nhiều ý nghĩa sâu rộng, bởi đây chính là cuộc chiến đánh dấu sự can thiệp của phương Tây vào Trung Quốc. Người Trung Hoa về sau gọi giai đoạn này là "một thế kỷ ô nhục".
Theo Danviet
Hải quân Anh đại phá 20 vạn quân Thanh, TQ ôm "nỗi hận ngàn thu" Triều đình nhà Thanh giai đoạn thế kỷ 18 trở nên yếu đuối trước sự trỗi dậy của phương Tây, đánh dấu thời kỳ mà chính người Trung Quốc gọi là "ô nhục" khi 20 vạn quân Thanh không đánh lại nổi chưa tới 2 vạn quân Anh, chủ yếu là Hải quân Hoàng gia. Hải quân Hoàng gia Anh với sức mạnh...