Trận đổ bộ chiếm đảo đẫm máu chôn vùi 120.000 mạng người
120.000 lính Nhật cố thủ trên đảo Okinawa trong giai đoạn cuối Thế Chiến 2, chỉ có 7.600 người còn sống sót sau 82 ngày giao tranh ác liệt, đánh dấu trận đánh đẫm máu nhất trên mặt trận Thái Bình Dương.
Thiết giáp hạm Yamato trong nhiệm vụ cuối cùng hướng đến đảo Okinawa.
Mang mật danh Chiến dịch Iceberg, giai đoạn cuối Thế Chiến 2 đã diễn ra trận đổ bộ chiếm đảo đẫm máu nhất của Mỹ và lực lượng đồng minh trên mặt trận Thái Bình Dương.
Mùa xuân năm 1945, quân Đồng minh tiến sát đến Nhật Bản và các máy bay đã có thể oanh tạc các thành phố Nhật. Cách Nhật Bản khoảng 563 km, đảo Okinawa được coi là bước cuối cùng trước cuộc tấn công toàn diện nhằm vào chính quốc Nhật của phe Đồng minh.
120.000 quân Nhật do Tướng Mitsuru Ushijima chỉ huy quyết tử thủ bảo vệ đảo trong khi quân Đồng minh ước tính, Nhật Bản chỉ có một nửa quân số này trên đảo. Lực lượng Nhật Bản được hỗ trợ bởi 10.000 máy bay và thiết giáp hạm mạnh nhất thời đó, Yamato.
Đối đầu với quân Nhật là 155.000 lính Mỹ, bao gồm cả lính thủy đánh bộ và lục quân. Mặc dù sau này, Mỹ phải đổ bộ thêm nhiều quân hơn để có thể chiếm hoàn toàn đảo Okinawa. Trung tướng Simon Bolivar Buckner chỉ huy đội quân đánh chiếm đảo với sự hỗ trợ của 1.300 tàu chiến, bao gồm cả nhóm tàu sân bay Anh.
Từ tháng 10.1944 – 3.1945, quân đội Mỹ mở đợt không kích nhằm vào Okinawa, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm máy bay địch. Đợt oanh tạc bằng tàu chiến bắt đầu từ 18.3 trong khi phía Nhật đáp trả bằng tấn công cảm tử (kamizake), gây thiệt hại 4 tàu sân bay Mỹ và phá hủy 2 tàu chiến khác.
Phe Đồng minh tiếp cận bờ biển đảo Okinawa.
Các lực lượng trên mặt đất cũng chiếm dần các hòn đảo lân cận. Sư đoàn bộ binh số 77 Mỹ đổ bộ lên đảo Kerama ngày 26.3 trước sự chống trả yếu hơn của phía Nhật.
Đổ bộ lên đảo Okinawa
Cho đến ngày đổ bộ đầu tiên vào 1.4.1945, các lực lượng Mỹ đã bắn tổng cộng 44.825 đạn pháo, 22.500 viên đạn súng cối và 32.000 quả rocket. Bãi mìn rải rác trước đảo Okinawa cũng đã được dọn dẹp.
4 giờ sáng, quân đoàn thủy quân lục chiến 24, với sự yểm trợ hỏa lực của các tàu chiến và máy bay, bắt đầu đổ quân lên bãi biển Hagushi, phía bắc Okinawa. 4 giờ 30 phút sau đó, binh sĩ Mỹ tiến vào đất liền và sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để mở trận địa.
Không ai biết rằng, Nhật Bản với chiến thuật mới, đã cố tình để cho lính Mỹ có thể dễ dàng đặt chân lên đảo. Cho đến trước khi trời tối, quân Mỹ đã kiểm soát khu vực bờ biển rộng 12,8 km với 60.000 người.
Binh sĩ Mỹ đã phải rất vất vả mới có thể chiếm được đảo Okinawa.
Cuộc đổ bộ tưởng như đơn giản tiếp tục vào ngày hôm sau. Binh sĩ Mỹ tiến sâu vào trong đảo, chia rẽ lực lượng Nhật làm hai, chiếm hai sân bay vốn là nơi các máy bay cảm tử tấn công tàu chiến Mỹ.
Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 6 rơi vào ổ phục kích của phát xít Nhật ở phía bắc. 3 tuần giao tranh khiến cho lực lượng Mỹ thương vong 1.200 người, con số này bên phía Nhật là 2.500. Tướng Buckner chỉ thực sự biết đến cuộc đối đầu khốc liệt khi tấn công xuống phía nam, nơi Tướng Ushijima cố thủ.
Ngày 4.4, quân đoàn thủy quân lục chiến 24 gặp phải kháng cự dữ dội ở thành phố Shuri. Ushijima biết rằng không thể giành chiến thắng nhưng tướng Nhật muốn gây thiệt hại cho người Mỹ lớn nhất có thể bằng chiến tranh tiêu hao.
Đợt tấn công cảm tử tái xuất từ ngày 6.4. 700 máy bay tấn công hạm đội 5 Mỹ, phá hủy hoặc gây thiệt hại tới 13 tàu khu trục. Một tuần sau đó, phát xít Nhật nghĩ ra thứ vũ khí tự sát mới. Quả tên lửa dạng máy bay do các phi công cảm tử Nhật Bản điều khiển. Một khi được kích hoạt ở tầm gần, tên lửa lao thẳng vào mục tiêu với vận tốc gần 1.000 km/giờ. 34 tàu chiến phe Đồng minh đã bị phá hủy bởi loại vũ khí này.
Video đang HOT
Thiết giáp hạm Yamato phát nổ trước đợt tấn công của các máy bay Mỹ.
Ngoài khơi, hạm đội Nhật Bản cũng khởi động nhiệm vụ tự sát. Không còn nhiều nhiên liệu, thiết giáp hạm Yamato, tàu tuần dương Yahagi và 8 tàu khu trục khác hướng đến Okinawa. Nhưng trước khi có thể hỗ trợ lực lượng trên đảo, các tàu Nhật bị đánh chặn bởi máy bay Mỹ. Không được yểm trợ trên không, niềm kiêu hãnh Yamato và toàn bộ các tàu khác bị đánh chìm.
Trên đảo, quân Mỹ bế tắc trước hệ thống phòng ngự của Ushijima. Ngay cả khi một lính Mỹ đổi 10 quân Nhật, phe Đồng minh vẫn không thể tiến thêm một bước nào.
Ngày 12.4, quân Nhật thậm chí còn phản kích dù các đợt tấn công này lần lượt đều bị lực lượng Mỹ hóa giải chỉ trong 2 ngày.
Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng
Tướng Buckner ra lệnh tăng cường yểm trợ từ ngoài khơi và tái khởi động tấn công nhưng lính thủy đánh bộ Mỹ không thể vượt qua lớp phòng thủ Nhật. Chỉ trong ngày 2.5, quân Nhật một lần nữa tấn công và tổn thất 5.000 người.
Chiến sự chỉ có dấu hiệu thay đổi vào ngày 11.5 khi Tướng Buckner ra lệnh tập trung tấn công vào bên sườn quân Nhật. Tránh rơi vào thế cô lập, phát xít Nhật rút quân về phía nam và chỉ giữ lại một nhóm bảo vệ thành phố Shuri đến ngày 31.5.
Lính Mỹ cắm cờ ở Shuri.
Binh sĩ Mỹ phải nhờ đến thuốc nổ và súng phun lửa mới dần vượt qua được các lô cốt phòng thủ Nhật Bản. Lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên phía tây nam bán đảo Oroku, mở rộng thêm sân bay để hỗ trợ đồng minh tiến quân về phía nam.
Tướng Buckner thậm chí còn thiệt mạng ngày 18.6 do pháo kích Nhật khi đến thị sát tình hình trên chiến trường. 3 ngày sau, chỉ huy quân Nhật trên đảo Okinawa, Ushijima và các sĩ quan đồng loạt tự sát ở trung tâm chỉ huy thay vì chấp nhận đầu hàng.
Binh sĩ Nhật nghe lệnh Ushijima sau đó vẫn tấn công du kích nhằm vào quân Mỹ cho đến cuối tháng 6. 7.400 quân Nhật cuối cùng đã đầu hàng sau đó, kết thúc 82 ngày giao tranh ác liệt.
Trận chiến trên đảo Okinawa là thảm kịch với đế quốc Nhật khi 110.000 binh sĩ thiệt mạng. Quân Mỹ tổn thất 12.000 binh sĩ, bao gồm 5.000 người chết trên biển và 37.000 người khác bị thương.
Về quy mô, các nhà sử học nhận định, trận Okinawa chỉ đứng sau cuộc đổ bộ Normandy. Đây cũng là trận chiến gây thương vong nhiều nhất trên mặt trận Thái Bình Dương.
Chưa đầy 2 tháng sau khi thất thủ tại Okinawa, Nhật Bản hứng chịu 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Đế quốc Nhật sau đó tuyên bố đầu hàng phe Đồng minh. Cuộc chiến tranh đẫm máu nhất lịch sử nhân loại chính thức kết thúc.
____________
Trong giai đoạn cuối Thế Chiến 2, Nhật Bản trở nên bế tắc và kiệt quệ. Mời bạn đọc theo dõi bài viết xuất bản sáng sớm ngày 4.11 về chiến dịch dùng 9.000 quả khinh khí cầu chở theo chất cháy và những khối thuốc nổ lớn, vượt Thái Bình Dương để tấn công lục địa Mỹ.
Theo Đăng Nguyễn – War History Online (Dân Việt)
Trận hải chiến lớn chưa từng thấy trong lịch sử hiện đại
12 tàu sân bay, hàng trăm tàu chiến, 2.200 máy bay đã được huy động trong trận hải chiến lớn nhất lịch sử chiến tranh hiện đại giữa hải quân Mỹ và hải quân Đế quốc Nhật Bản ở vịnh Leyte, Philippines.
Ảnh minh họa.
Chiến tranh Thế giới lần hai là cuộc chiến rộng khắp và thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Cuộc chiến kéo dài 6 năm đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 70 triệu người trên toàn thế giới; kéo theo hàng loạt những phát minh về quân sự như vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực... Quyết định cục diện Thế Chiến 2 bao gồm những trận đánh đã đi vào lịch sử với số lượng khổng lồ trang thiết bị vũ khí của các bên tham chiến.
Trận chiến vịnh Leyte (hải chiến Philippines lần 2) được các nhà sử học đánh giá là cuộc đối đầu trên biển lớn nhất trong chiến tranh hiện đại dựa trên tiềm lực quân sự của hai bên. Khí tài quân sự hiện đại Mỹ và Nhật Bản đổ vào chiến trường rộng lớn tới 260.000 km2.
Đây được coi là một trong những trận chiến quan trọng nhất trong Thế chiến 2, quyết định sức mạnh hải quân Mỹ và Nhật Bản cũng như khả năng kiểm soát Thái Bình Dương. Trận chiến vịnh Leyte bao gồm 4 trận đánh tại biển Sibuyan, biển Surigao, Cape Engao và Samar từ ngày 23-26.10.1944.
Bối cảnh lịch sử
Từ tháng 8.1942 đến đầu năm 1944, hải quân Mỹ đã đánh bật lực lượng Nhật Bản ra khỏi các đảo ở phía Nam và miền trung Thái Bình Dương. Giữa năm 1944, hải quân Mỹ đã chiếm được một số đảo quan trọng, bàn đạp cho máy bay ném bom B-29 xuất kích tấn công các đảo chính của Nhật Bản.
Ban đầu, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ thiên về giải pháp cô lập lực lượng Nhật tại Philippines và tấn công Đài Loan. Nhưng Đại tướng Lục quân Douglas MacArthur lại muốn tấn công vào Philippines, cắt ngang con đường tiếp tế chiến lược của Nhật Bản.
Để lại Philippines trong tay quân Nhật sẽ là một đòn đánh vào thanh thế của Mỹ và là một sự sỉ nhục vào danh dự cá nhân của MacArthur. Bởi năm 1942 ông đã phát biểu câu nói nổi tiếng: "Tôi sẽ trở lại", ám chỉ rằng sẽ trở lại Philippines.
Sau khi xem xét các yếu tố chiến lược, hải quân Mỹ quyết định mở cuộc tấn công vào Philippines nhằm cắt đứt tuyến vận tải biển chiến lược của Nhật Bản qua vịnh Leyte.
Đại tướng lục quân Mỹ Douglas MacArthur (giữa).
Theo kế hoạch, quân đội do tướng MacArthur chỉ huy sẽ đổ bộ lên đảo ở bờ đông Leyte. Các kỹ sư quân sự sẽ xây dựng một sân bay tạm thời để quân đội Mỹ làm bàn đạp tấn công sâu hơn vào Philippines. Hạm đội 7 đóng vai trò yểm trợ đổ bộ và chiến đấu trực tiếp với hải quân Nhật. Ngoài ra, Mỹ còn hạm đội 3 do Đô đốc William F. Halsey, Jr đóng vai trò yểm trợ gần bờ nếu tàu chiến Nhật áp sát.
Việc thiếu tổng chỉ huy làm cho sự phối hợp giữa các lực lượng không đồng nhất, khiến hải quân Mỹ chiến đấu không hiệu quả như kế hoạch. May mắn rằng lực lượng Nhật Bản với 3 chỉ huy riêng biệt, cũng không có tổng chỉ huy chung.
Hàng trăm tàu chiến Mỹ và Nhật Bản đã tham gia vào hải chiến lớn nhất lịch sử ở vịnh Leyte.
Đến ngày 20.10, hải quân Mỹ đã huy động đến vịnh Leyte 8 tàu sân bay cỡ lớn, 8 tàu tuần dương hạng nhẹ, 18 tàu tuần dương hộ tống, 12 thiết giáp hạm, 24 tàu tuần dương, 141 tàu khu trục và khoảng 1.500 máy bay. Trong khi đó, lực lượng Nhật Bản chỉ có 4 tàu sân bay, 9 thiết giáp hạm, 19 tàu tuần dương, 34 tàu khu trục và 700 máy bay.
Điểm mạnh của hải quân Nhật lúc đó là hai thiết giáp hạm lớn nhất và mạnh nhất, bao gồm Yamato và Mushashi. Hải quân Mỹ dựa vào ưu thế của các tàu sân bay cỡ lớn cùng 1.500 máy bay.
Chôn vùi 300.000 tấn sắt thép
Để chuẩn bị cho trận hải chiến quyết định, từ ngày 12.10, hạm đội 3 tấn công các sân bay ở đảo Đài Loan và quần đảo Ryukyu nhằm tiêu diệt lực lượng không quân Nhật Bản tại đây, dọn đường cho cuộc đổ bộ vào Leyte. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 16.10 với chiến thắng của quân đội Mỹ.
Hai ngày sau đó, lực lượng Mỹ chiếm đảo Homonhon và Dinagat, mở đường tiến vào vịnh Leyte. Nhật Bản chuyển sang chiến lược Sho-1. Phó đô đốc Jisabur Ozawa chỉ huy mũi tấn công phía Bắc làm nhiệm vụ thu hút lực lượng Mỹ ra khỏi vịnh Leyte.
Nhóm tàu này làm nhiệm vụ mồi nhử trong khi đó các tàu chiến ở phía Nam do Phó đô đốc Shoji Nishimura chỉ huy tấn công vào khu vực eo biển Surigao. Nhóm tàu chiến ở tâm do Phó đô đốc Takeo Kurita chỉ huy đột kích qua eo biển San Bernardino.
Thủy thủ trên tàu sân bay Zuikaku thực hiện nghi lễ chào cờ cuối cùng sau khi nó bị trúng đạn nghiêng hẳn sang một bên và nhanh chóng bị chìm sau đó.
Trong trận hải chiến vịnh Leyte, lần đầu tiên các phi công Nhật Bản dùng đòn tấn công cảm tử (kamikaze) một cách có tổ chức. Ngày 20.10.1944, hải quân Mỹ bắt đầu đổ bộ lên đảo Leyte khá dễ dàng. Cho đến cuối ngày, 100.000 tấn hàng tiếp tế đã được chuyển đến Leyte.
Cuộc chạm trán giữa hải quân đôi bên lên đến đỉnh điểm của sự ác liệt với quy mô chưa từng có kéo dài 3 ngày, từ ngày 23.10. Một ngày trước đó, 4 hạm đội Nhật Bản lấn lướt hướng về phía hải quân Mỹ để nghênh chiến.
Ngày 23.10, hải quân Mỹ sớm chiếm lợi thế nhờ uy lực của tàu ngầm, đánh đắm hai tàu tuần dương Nhật thuộc quyền chỉ huy của Phó đô đốc Takeo Kurita. Tàu tuần dương thứ ba hư hỏng nặng và phải trở về Brunei.
Thiết giáp hạm Yamato sau khi trúng một quả bom.
Sáng ngày 24.10, Nhật phản công nhờ 200 máy bay cất cánh trên đảo Luzon, vô hiệu hóa tàu sân bay hạng nhẹ Princeton. Tàu sân bay của Phó đô đốc Jisabur Ozawa dùng hai phần ba máy bay tấn công hạm đội 3 Mỹ do Đô đốc William F. Halsey, Jr nhưng không thành công. Các phi công trên tàu sân bay Nhật vẫn còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Ở phía nam, tàu chiến Nhật tấn công hạm đội 7 Mỹ nhưng cũng thất bại, thậm chí còn mất 70 máy bay.
Chống đỡ thành công đợt tấn công của Nhật, hải quân Mỹ đồng loạt phản công, 5 đợt không kích suốt từ sáng đến chiều đã đánh chìm thiết giáp hạm Musashi, một trong hai niềm kiêu hãnh của hải quân Nhật.
Tâm điểm của trận chiến diễn ra vào ngày 25.10 khi các phi công dày dạn kinh nghiệm của Mỹ đánh chìm toàn bộ 4 tàu sân bay Nhật do Phó đô đốc Jisabur Ozawa chỉ huy. Tình cảnh phía nam thậm chí còn tồi tệ hơn khi Phó đô đốc Shoji Nishimura để mất gần như toàn bộ tàu chiến, chỉ còn một tàu khu trục quay trở về.
Đế quốc Nhật chỉ giành được ưu thế ở khu vực trung tâm, khi sức mạnh từ thiết giáp hạm đã đánh chìm một tàu sân bay Mỹ. Hướng đến vịnh Leyte, hạm đội do Phó Đô đốc Takeo Kurita chỉ huy còn đánh chìm tàu sân bay hộ tống Gambier Bay và 3 tàu khác. Lực lượng Nhật cũng tổn thất 3 tàu tuần dương và 1 chiếc bị hư hại nặng. Suốt cả ngày 25.10, Phó Đô đốc Kurita cố gắng truy đuổi hạm đội Mỹ trong vô vọng và chấp nhận bỏ cuộc vào lúc 6 giờ chiều.
Tàu sân bay hạng nhẹ USS Princeton bốc cháy sau khi trúng bom từ máy bay Nhật Bản.
Đến ngày 26.10, trận chiến vịnh Leyte gần như đã kết thúc khi hạm đội 3 Mỹ chỉ truy đuổi và đánh chìm được một tàu tuần dương Nhật trong khi các tàu Nhật đang rút chạy khỏi khu vực.
Kết thúc trận chiến, hải quân Nhật thiệt hại nặng nề, tổn thất 3 thiết giáp hạm (bao gồm niềm kiêu hãnh Musashi), 4 tàu sân bay, 10 tàu tuần dương và 9 tàu khu trục. Tổng cộng 300.000 tấn sắt thép chìm xuống biển. Hải quân Mỹ chỉ thiệt hại tương đương 37.000 tấn, bao gồm 1 tàu sân bay hạng nhẹ và 2 tàu sân bay hộ tống cùng một vài tàu chiến khác.
Trong khi Mỹ dễ dàng bù đắp thiệt hại thì hải quân Nhật mất hoàn toàn năng lực chiến đấu. Hải quân Mỹ từ đây có thể tiến thẳng đến chính quốc Nhật Bản mà không gặp phải bất cứ sự phản kháng đáng kể nào trên biển. Trong nhiệm vụ cuối cùng, thiết giáp hạm Yamato đã bị đánh chìm trên đường đến Okinawa.
Đô đốc Yonai, Bộ trưởng Hải quân Nhật khi đó nhận ra rằng thất bại ở Leyte "tương đương với việc để mất Philippines. "Tôi nghĩ rằng đó là lúc cuộc chiến đến hồi kết thúc".
Sau này, Đô đốc Nhật Bản Ozawa chia sẻ: "Kể từ sau trận chiến này, các tàu chiến Nhật Bản gần như tê liệt hoàn toàn, đế quốc Nhật chỉ còn biết dựa vào lực lượng trên bộ và các đợt tấn công cảm tử trên bầu trời".
Thiệt hại quá lớn cùng với sự sụt giảm nghiêm trọng về sản xuất quốc phòng do thiếu nguyên liệu sản xuất dẫn đến hạm đội Liên hợp Nhật Bản và quân đội Nhật Bản dần mất sức chiến đấu rồi bị đánh bại hoàn toàn.
________________
Trận không chiến ở Anh đầy ác liệt năm 1940 là chiến dịch đầu tiên trong lịch sử mà hai lực lượng quân sự chỉ đối đầu nhau bằng máy bay trên không. Mời bạn đọc bài tiếp theo xuất bản sáng sớm 2.11 về cuộc đối đầu vô tiền khoáng hậu giữa lực lượng không quân Hoàng gia Anh và lực lượng cực mạnh của trùm phát xít Hitler.
Theo Đăng Nguyễn (Dân Việt)
Nga-Trung bắt tay sản xuất máy bay cạnh tranh với Boeing Trung Quốc và Nga đã hợp tác phát triển máy bay thương mại để cạnh tranh với các tập đoàn lớn như Airbus và Boeing. Mẫu máy bay do Trung Quốc và Nga hợp tác phát triển, được trưng bày tại triển lãm hàng không ở thành phố Châu Hải. Công ty United Aircraft Corporation của Nga và công ty máy bay thương...