Trận chiến thảm họa của tàu sân bay Anh với thiết giáp hạm Đức
Sự chủ quan của các sĩ quan chỉ huy tàu sân bay HMS Glorious đã khiến họ trả giá đắt khi đối đầu với hai thiết giáp hạm Đức, làm hơn 1.500 thủy thủ thiệt mạng.
Tàu sân bay HMS Glorious. Ảnh: WW2Today.
Trong Thế chiến II, thiết giáp hạm là mối đe dọa luôn khiến tàu sân bay phải dè chừng. Điều này được chứng minh vào ngày 8/6/1940, khi tàu sân bay HMS Glorious của Anh có trận đụng độ thảm họa với hai thiết giáp hạm Đức ngoài khơi Na Uy, theo National Interest.
Tàu Glorious vốn là một tuần dương thiết giáp được đóng cuối năm 1916, sau đó được hoán cải thành tàu sân bay do có tốc độ hành trình 55 km/h và kích thước lớn để chứa máy bay. Con tàu từng gặp vận rủi khi đâm phải tàu chở khách Pháp trong sương mù hôm 1/4/1931, khiến một thủy thủ trên tàu và 34 hành khách của tàu viễn dương thiệt mạng.
Tháng 4/1940, sau khi phát xít Đức tấn công Na Uy, tàu sân bay Glorious được điều động tham chiến. Đây đáng ra sẽ là thất bại của hải quân Đức, bởi họ hoạt động tương đối gần các căn cứ hải quân Anh, trong khi hạm đội Anh chiếm ưu thế áp đảo về số lượng.
Tuy nhiên, phản ứng của phe Đồng minh lại có phần lóng ngóng. Dù hải quân Đức chịu tổn thất nặng nề, lính dù và quân đổ bộ của họ vẫn đủ sức bảo vệ các cảng biển và căn cứ không quân ở Na Uy. Liên quân Anh – Pháp huy động nhiều tiểu đoàn và máy bay đổ bộ nhưng không thể làm được gì, buộc phải rút lui vào cuối tháng 5 do liên tục bị không quân Đức tập kích.
Đầu tháng 6, tàu Glorious được lệnh di chuyển đến ngoài khơi bờ biển Na Uy để sơ tán một số chiến đấu cơ Gladiator và Hurricane sống sót của không quân hoàng gia Anh. Để dành chỗ cho số máy bay này, HMS Glorious chỉ có thể mang theo 9 tiêm kích Sea Gladiator và 5 máy bay ngư lôi Swordfish.
“Do không có tàu chiến Đức hoạt động trong vài tháng trước đó, hầu hết sĩ quan cao cấp của Anh tỏ ra chủ quan, chỉ điều hai tàu khu trục hộ tống Glorious trong nhiệm vụ này. Họ tin rằng HMS Glorious sẽ không bị hải quân Đức tấn công ở ngoài khơi Skagerrak”, sử gia Geirr Haar cho biết.
Ngày 8/6, hai thiết giáp hạm Scharnhorst và Greisenau của Đức phát hiện cột khói của tàu Anh từ khoảng cách 48 km. Đây là các tàu chiến hiện đại được đóng trong thập niên 1930, dư sức đối phó với một tàu sân bay và hai khu trục hạm hộ tống.
Video đang HOT
Thiết giáp hạm Scharnhorst khi mới hạ thủy. Ảnh: World War Photos.
Tàu HMS Glorious khi đó không có máy bay trinh sát hay chiến đấu cơ tuần tra, cũng như thiếu lực lượng cảnh giới, nên không máy bay nào trên tàu sẵn sàng xuất kích khi người Đức khai hỏa. Các khu trục hạm hộ tống Acasta và Ardent theo sát tàu sân bay chỉ để đối phó tàu ngầm, thay vì trinh sát phía trước để cảnh báo về tàu mặt nước của Đức. Không một tàu nào của Anh trang bị radar cảnh giới, một số nồi hơi trên tàu Glorious còn bị ngắt khiến tốc độ hành trình giảm đáng kể.
Sự chuẩn bị hời hợt khiến hạm đội Anh phải trả giá đắt. Các thiết giáp hạm Đức áp sát đối phương với tốc độ 55 km/h. Các khu trục hạm Anh cố gắng tạo màn khói cho HMS Glorious rút lui, trong khi thủy thủ trên tàu này vội vã cho máy bay cất cánh. Nhưng các thiết giáp hạm Đức kịp khai hỏa ở khoảng cách 24 km. Chỉ trong vòng vài phút, đài chỉ huy trên tàu Glorious bị trúng đạn làm thuyền trưởng thiệt mạng.
Tàu khu trục HMS Ardent cố gắng lao đến hai con tàu khổng lồ của Đức để cầm chân đối phương.
“Thiếu tá hải quân Barker hiểu rõ những gì mình phải đối mặt và tin rằng biện pháp tốt nhất là tấn công hai thiết giáp hạm để câu giờ cho tàu Glorious và Acasta trốn thoát xuống phía nam”, Haarr viết.
Chỉ huy phó của thiết giáp hạm Scharnhorst cho biết tàu Ardent đã tấn công bằng ngư lôi, sử dụng các kỹ năng tuyệt vời để chạy lắt léo tránh hỏa lực phòng thủ từ pháo hạng trung trên các tàu chiến Đức. Chiếc khu trục hạm của Anh cuối cùng cũng bị chìm sau khi bị trúng nhiều phát đạn. Họ vẫn cơ động với tốc độ cao và các pháo phía trước vẫn khai hỏa đến phút cuối. Chỉ có một người duy nhất trên tàu Ardent sống sót.
Tàu khu trục HMS Ardent vào năm 1930. Ảnh: Wikipedia.
Tàu Acasta cũng không chịu thua kém. Dù bị trúng nhiều loạt đạn pháo hạng nặng, nó vẫn kịp phóng một loạt ngư lôi, trong đó một quả trúng tàu Scharnhorst khiến nó bị hỏng nặng. Tuy nhiên, nỗ lực của hai chiếc tàu khu trục vẫn là vô ích. Các thiết giáp hạm Đức bắt kịp tàu HMS Glorious và dội pháo cho đến khi nó chìm hẳn.
Hải quân Anh không nhận được tín hiệu cầu cứu, nhiều khả năng là do các sĩ quan trên tàu Glorious đã thiết lập sai tần số radio. Chỉ có tàu tuần dương HMS Devonshire gần đó nhận được tín hiệu khẩn cấp. Nhưng họ lúc đó đang hộ tống vua Haakon của Na Uy đến Anh, nên chỉ huy tàu quyết định nhiệm vụ ưu tiên là bảo vệ nhà vua. Trên vùng biển Bắc lạnh giá, 1.519 thủy thủ Anh trên tàu Glorious thiệt mạng khi nó bị chìm xuống biển.
Duy Sơn
Theo VNE
'Đội quân ma' giăng bẫy điệp viên phát xít Đức của Liên Xô
Chiến dịch Scherhorn thành công tới mức khi kết thúc Thế chiến II, Đức vẫn tưởng họ có một đội quân vũ trang hơn 2.000 người trên lãnh thổ Liên Xô.
Kế hoạch phản gián quy mô lớn đã khiến Đức mất hàng chục điệp viên. Ảnh: Bashny.
Năm 1941, điệp viên Alexander Demyanov của Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), lực lượng cảnh sát mật của Liên Xô, trong vai một kẻ đào ngũ đã phát hiện một mạng lưới gián điệp bí mật của Đức ngay trong lòng Liên Xô, từ đó giúp Moscow lên kế hoạch xây dựng một "đội quân ma" đánh lừa phát xít suốt nhiều năm, theo War History.
Demyanov đóng vai là một điệp viên hai mang, cung cấp thông tin tình báo cho Đức từ trong lòng Liên Xô, áp dụng chiến thuật nghi binh khiến hàng chục điệp viên Đức rơi vào bẫy. Từ kết quả này, nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin yêu cầu NKVD tiến hành chiến dịch phản gián quy mô lớn có tên "Scherhorn" (mật danh khi đó là chiến dịch Berezino) từ tháng 8/1944 đến tháng 5/1945.
Một "đội quân ma" do trung tướng Pavol Sudoplatov đứng đầu được thành lập, đóng quân tại một "trại lính Đức" ngay trong lòng Liên Xô để dụ đối phương điều điệp viên đến phối hợp hành động và hỗ trợ.
Mật vụ Liên Xô chọn trung tá Heinrich Scherhorn, tù binh Đức bị bắt giữ vào tháng 6/1944, để đóng vai chỉ huy trại lính giả và duy trì liên lạc với bộ chỉ huy Đức.
Tháng 8/1944, chiến dịch Berezino bắt đầu với việc Max (mật danh của Demyanov) bắn tin cho tình báo Đức, nói rằng một nhóm vũ trang 2.500 thành viên của mạng lưới điệp viên Scherhorn đang bị Hồng quân Liên Xô bao vây dọc sông Berezina.
Đại tá Đức Hans-Heninrich Worgitzsky nghi ngờ, đoán rằng đây là hoạt động phản gián của Liên Xô. Tuy nhiên, sĩ quan Gehlen, liên lạc viên tin tưởng Max, thúc giục ông này tiến hành kế hoạch giải cứu.
Otto Skorzeny, người đứng đầu đội cận vệ SS, đã cử một nhóm biệt kích Đức xâm nhập lãnh thổ Liên Xô bằng oanh tạc cơ Heinkel He 111 để thực hiện chiến dịch giải cứu. Các binh sĩ Hồng quân Liên Xô mặc quân phục Đức đã đợi sẵn và dẫn lực lượng này đến trại. Khi bước vào lều của Scherhorn, tất cả lính Đức đều bị mật vụ NKVD bắt giữ.
Nhóm lính biệt kích bị ép tham gia chiến dịch phản gián, sau đó báo cáo rằng nhiệm vụ đã thành công và cần thêm quân chi viện. Skorzeny nhanh chóng điều thêm 3 đội đặc nhiệm đến hỗ trợ. Tất cả đều bị tóm gọn tại địa điểm do điệp viên Liên Xô thông báo.
Otto Skorzeny giao nhiệm vụ cho biệt kích Đức đến giải cứu Scherhorn. Ảnh: Wikipedia.
Chiến dịch phản gián tiếp diễn cho đến khi phản ứng của Đức bắt đầu chậm dần. NKVD chỉ thị cho Scherhorn liên lạc với Đức thông báo nhiệm vụ giải cứu đã thành công, nhưng không thể trở về Đức do số lượng thương vong leo thang. Đáp lại, bộ chỉ huy Đức thông báo đang điều máy bay đến sơ tán những người bị thương và đưa họ đến sau phòng tuyến Đức. Hành động này có nguy cơ làm phá sản kế hoạch của Liên Xô.
Để duy trì vỏ bọc, mật vụ NKVD dàn dựng một trận giao tranh nhỏ trong đêm giữa lính của Scherhorn và Hồng quân Liên Xô khi các máy bay Đức chuẩn bị hạ cánh. Trong lúc giao tranh hỗn loạn, đèn trên đường băng bị tắt khiến cho máy bay Đức không thể hạ cánh. Nhờ đó bí mật về chiến dịch này vẫn được duy trì.
Trong nhiều tháng, cả Gehlen và Skorzeny đã làm theo những gì Liên Xô sắp đặt, khiến các chỉ huy Đức tin rằng 2.000 lính phe mình vẫn bị mắc kẹt trong lãnh thổ đối phương. Skorzeny ra lệnh cho Scherhorn chia nhỏ lực lượng đi qua Ba Lan để đến nơi an toàn. Tuy nhiên, kế hoạch này cũng không thành công do Sudoplatov đã đập tan đường dây điệp viên hỗ trợ của Đức ở Ba Lan.
Biện pháp hỗ trợ duy nhất quân Đức có thể làm là thả hàng tiếp tế và lương thực cho nhóm vũ trang. Trong suốt chiến dịch, phát xít Đức đã điều 39 chuyến bay cùng 12 điệp viên và 12 thiết bị liên lạc vô tuyến đến hỗ trợ nhóm của Scherhorn. Số biệt kích Đức bị bắt lớn đến mức NKVD có nguy cơ mất kiểm soát do chiến dịch leo thang vượt xa dự đoán. Dù vậy, liên lạc vô tuyến giữa Đức và điệp viên Liên Xô vẫn diễn ra trong nhiều tháng.
Cuối cùng, sự hỗ trợ của Đức cũng bắt đầu suy giảm. Tháng 1/1945, lực lượng Đức vẫn ở cách xa đội quân của Scherhorn, trong khi không quân Đức nhanh chóng cạn kiệt nguồn lực. Scherhorn lúc này vẫn tiếp tục gửi yêu cầu giúp đỡ nhưng không có phản hồi.
Tháng 3/1945, Scherhorn được phát xít Đức vinh danh là anh hùng dân tộc vì các nỗ lực khi bị giam cầm trong lãnh thổ Liên Xô, thậm chí ông ta còn được trao Huân chương Hiệp sĩ.
Khi Thế chiến II đến hồi kết cũng là lúc chiến dịch phản gián của Liên Xô hạ màn. Cho đến đầu tháng 5/1945, Đức vẫn duy trì liên lạc với Scherhorn, hy vọng nhóm vũ trang hơn 2.000 lính của ông ta vẫn còn sống mà không hề biết rằng đó là "đội quân ma" chưa từng tồn tại.
Duy Sơn
Theo VNE
Chiếc tàu ngầm Đức duy nhất bị oanh tạc cơ Anh bắt sống Một oanh tạc cơ Anh phát hiện tàu ngầm U-570 của phát xít Đức nổi lên trên mặt biển liền thả bom chìm, buộc tàu Đức đầu hàng. Chiếc U-570 sau khi bị bắt giữ. Ảnh: History Wings. Trong cuộc chiến trên Đại Tây Dương thời Thế chiến II, phát xít Đức thường sử dụng tàu ngầm để tập kích các đoàn tàu...