Trách nhiệm 6.126 tỷ đồng?
Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm Phạm Công Danh và đồng phạm giai đoạn 2, luật sư, đại diện BIDV, TPBank và Sacombank đồng loạt phản đối việc đại diện Viện kiểm sát (VKS) đề nghị thu hồi 6.126 tỷ đồng từ 3 NH trả về cho NH Xây dựng – VNCB (nay là CB).
Liên quan đến vụ việc, các chuyên gia nhận định cần nhìn rõ vào bản chất sự việc, để xác định trách nhiệm của các bên khi cho 29 công ty của Phạm Công Danh vay vốn với tài sản đảm bảo là tiền gửi của VNCB tại 3 NH này.
NH phản đối thu hồi
Tại phiên xét xử vụ Phạm Công Danh vào tháng 1-2018, đại diện VKS đã đề nghị thu hồi hơn 6.126 tỷ đồng từ BIDV, Sacombank, TPBank cho VNCB để khắc phục hậu quả. Theo cáo buộc, từ năm 2013 đến 2014, Phạm Công Danh chỉ đạo cấp dưới tại VNCB và Tập đoàn Thiên Thanh dùng 29 pháp nhân để lập hồ sơ vay tiền tại 3 NH, và dùng tiền của VNCB (hơn 6.600 tỷ đồng) gửi vào các NH này để bảo lãnh.
Do các công ty này không trả được nợ hoặc có vi phạm so với thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, nên 3 NH yêu cầu VNCB thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ vay. Theo VKS, hành vi này của Phạm Công Danh đã gây thiệt hại cho VNCB hơn 6.126 tỷ đồng. Trong quá trình điều tra, VKS đã đề nghị cơ quan điều tra thu hồi tài sản từ 3 NH là Sacombank, BIDV và TPBank để trả về cho VNCB, nhưng cơ quan điều tra chưa thực hiện.
Tại phiên tranh tụng ngày 22-1, VKS đề nghị HĐXX xem xét, thu hồi khoản tiền hơn 6.126 tỷ đồng từ 3 NH Sacombank, BIDV và TPBank để trả lại cho VNCB. Việc này đã gây ra tranh cãi. Tại phiên tòa diễn ra chiều 31-7, luật sư đại diện của BIDV, TPBank và Sacombank khẳng định các giao dịch tiền gửi, hợp đồng tín dụng, cầm cố tài sản đảm bảo giữa NH và VNCB đều có giá trị pháp lý đầy đủ. Luật sư đại diện Sacombank cũng đề nghị HĐXX lưu ý kiến nghị của Hiệp hội NH Việt Nam (VNBA) đã gửi tới phiên tòa tháng 1-2018.
Bị cáo Phạm Công Danh bị dẫn giải tại phiên tòa xét xử hôm 31-7.
Cụ thể, trước đó VNBA đã có văn bản gửi lãnh đạo một số cơ quan Chính phủ và HĐXX đại án Phạm Công Danh về một số nội dung liên quan đến vụ án này. Theo VNBA, kết luận giám định của Tổ giám định độc lập của NHNN khẳng định 3 NH này đã thực hiện việc thu hồi nợ vay của khách hàng đúng quy định và thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký. Việc thực hiện như kiến nghị của đại diện VKS sẽ tạo tiền lệ bất lợi, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động của các NH.
Theo pháp luật hiện hành, các NH cho vay không có trách nhiệm phải tìm hiểu và xác minh nguồn gốc số tiền trên tài khoản thanh toán của bên vay trước khi thu nợ. Nếu buộc các NH phải xác minh về nguồn gốc số tiền thu nợ sẽ phát sinh nhiều khó khăn, thủ tục hành chính và chi phí cho NH và khách hàng.
Video đang HOT
Giao dịch phát sinh từ các hợp đồng tín dụng của các NH với khách hàng là giao dịch hợp pháp, việc thu nợ từ tài khoản của bên có nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ. Việc thực hiện yêu cầu trên sẽ không bảo đảm quyền và lợi ích của các NH theo quy định của pháp luật.
Cũng theo VNBA, việc thực hiện như kiến nghị của đại diện VKS có thể dẫn đến hàng loạt giao dịch vay vốn, gửi tiền với giá trị nhiều tỷ đồng có nguy cơ xảy ra tranh chấp, xáo trộn các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại hợp pháp, hợp lệ đang vận hành bình thường.
Theo đó, số tiền đã thu nợ hợp pháp, hợp lệ và được tất toán từ nhiều năm trước có thể bị bên vay đòi lại vì cho rằng nguồn tiền đã trả nợ không hợp pháp, hoặc bị thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này làm gia tăng rủi ro pháp lý không dự liệu được cho các TCTD, khách hàng vay và người gửi tiền, xáo trộn môi trường kinh doanh, khách hàng mất niềm tin vào TCTD, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống NH. Ngoài ra, các TCTD, nhất là TCTD nước ngoài sẽ không an tâm hoạt động, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Cần xem xét làm rõ nhiều điều
Xung quanh vụ việc này, TS. Bùi Quang Tín, Trường Đại học NH TPHCM nêu quan điểm, về bản chất của hoạt động bảo lãnh, khi con nợ (tức 29 công ty) không có khả năng trả nợ, NH sẽ dùng tài sản đảm bảo để xử lý. Tuy nhiên, vấn đề này phải đặt trong tổng thể để xem xét nhiều yếu tố và những điểm đã vi phạm.
Theo Luật TCTD năm 2010, ông Danh không thể cho 29 công ty của mình vay, nên đã lách luật để cho vay qua 3 NH trên. Về hợp đồng vay, ông Danh dùng tiền gửi của VNCB tại 3 NH này để bảo lãnh cho 29 công ty vay tiền. Nói cách khác, ông Danh đã dùng chính số tiền của NH để cho chính mình vay bằng cách đi đường vòng qua NH khác. Như vậy, hợp đồng này đã vi phạm pháp luật. Do đó, về bản chất kinh tế và pháp lý, tòa hoàn toàn có thể tuyên hợp đồng này vô hiệu.
Trao đổi với ĐTTC, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính NH chia sẻ, dựa trên nguyên tắc cẩn trọng khi cho vay cần phải xem xét trách nhiệm của 3 NH này trong 2 vấn đề. Thứ nhất, khi 3 NH nhận dùng tiền gửi của VNCB để đảm bảo món vay cho 29 công ty của ông Phạm Công Danh phải nghiên cứu khả năng trả nợ của 29 công ty đó.
Đồng thời, họ phải hiểu quan hệ giữa ông Danh, VNCB và các công ty đó cũng như mục đích vay tiền của 29 công ty này. Trong trường hợp 3 NH không tìm hiểu, chỉ dựa vào tài sản thế chấp để cho vay, họ đã vi phạm nguyên tắc cẩn trọng khi cho vay. Tức 3 NH đã không quan tâm đến nguồn hoàn trả thứ nhất (khả năng trả nợ, hoạt động kinh doanh, nguồn tiền trả nợ của các công ty đó), chỉ quan tâm đến nguồn hoàn trả thứ hai là tài sản bảo đảm. Bởi lẽ, khi cho vay, các NH phải xem nguồn hoàn trả thứ nhất sau đó mới xem đến nguồn hoàn trả thứ hai.
Thứ hai, cần xem xét tiền gửi của VNCB đem thế chấp là tiền do NH sở hữu hay tiền gửi của khách hàng. Bởi vì tài sản người khác gửi cho NH, NH không có quyền đem đi thế chấp, chỉ có thể thế chấp tài sản chính mình sở hữu. Khi 3 NH này nhận tài sản thế chấp là tiền gửi của VNCB, trách nhiệm của họ là phải biết tiền đó VNCB có sở hữu hay không.
Trường hợp đó là tiền khách hàng gửi cho VNCB và 3 NH này biết rõ nhưng vẫn chấp nhận khoản tiền đó làm tài sản đảm bảo, họ cũng sai nguyên tắc về nhận tài sản thế chấp cũng như nguyên tắc thận trọng trong cho vay.
Theo pháp luật dân sự, khi hợp đồng kinh tế vô hiệu, các bên sẽ trả cho nhau những gì đã giao và nhận. Như vậy 29 công ty của ông Danh phải trả tiền lại cho 3 NH, và 3 NH sẽ trả lại tiền cho VNCB, không phải 3 NH được quyền xử lý tài sản này. Tức 3 NH muốn thu hồi nợ phải lấy tiền từ 29 công ty, không được lấy tiền từ VNCB, yêu cầu của VKS là đúng theo bản chất vấn đề. Còn VNBA bảo vệ quyền lợi NH nên lý giải từ góc độ nghiệp vụ NH, các quy định về hợp đồng bảo lãnh và cho vay. Theo đó, các NH cho vay và không thu hồi được nợ từ 29 công ty, nên xử lý tài sản bảo đảm là đúng. Song lý giải đó chưa đúng bản chất vấn đề.
TS. BÙI QUANG TÍN
Yên Lam
Theo sggp
Sao lại truy tố Phạm Công Danh và Trầm Bê tội "Cố ý làm trái..."?
Lập chứng từ khống, lấy tiền từ Ngân hàng Xây dựng (VNCB) để làm tài sản đảm bảo cho khoản vay 1.800 tỷ đồng của 6 công ty pháp nhân do Phạm Công Danh chỉ đạo thành lập tại Ngân hàng Sacombank, sử dụng các khoản vay không đúng cam kết. Vậy tội danh của Phạm Công Danh, Trầm Bê và đồng phạm có phải là "Cố ý làm trái..." hay "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"?
Hôm nay (9.1), trong ngày làm việc thứ 2 của phiên xét xử sơ thẩm vụ "đại án" Phạm Công Danh và 45 đồng phạm. Buổi sáng và gần hết thời gian buổi chiều, VKSND TP.HCM chủ yếu công bố 130 trang cáo trạng truy tố hành vi của các bị cáo.
Phiên xét xử vụ "đại án" Phạm Công Danh và đồng phạm đang diễn ra. Ảnh: Lý Tín
Cáo trạng cho thấy, giữa năm 2013, khi VNCB đang có khoản nợ 2.600 tỷ đồng đến hạn phải trả ở Ngân hàng BIDV. Danh tổ chức cuộc họp HĐQT VNCB gồm Danh và 5 thành viên. Trong đó có 3 thành viên không tham gia điều hành, không tham gia họp nhưng vẫn ký tên vào biên bản. Từ đó, Danh ra một nghị quyết dùng tiền dư ở Ngân hàng VNCB để đảm bảo cho khách hàng vay vốn tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác.
Như vậy, thứ nhất, Danh đã cố tình tạo ra một "nghị quyết" cho riêng mình để vay tiền ở ngân hàng khác.
Danh đến gặp Trầm Bê hỏi vay Sacombank 1.800 tỷ. Tuy nhiên, Danh là Chủ tịch HĐQT VNCB nên không thể đứng vay được, vì thế Danh sử dụng 6 công ty do người của Danh đứng tên pháp nhân. Dưới sự chỉ đạo của Danh, Mai Hữu Khương lập khống 3 bảng thỏa thuận 3 bên hợp tác kinh doanh bất động sản, 3 hợp đồng đặt cọc 2 bên, 3 hợp đồng đặt cọc 3 bên cho 6 công ty mua bất động sản của 2 công ty của Danh là Tập đoàn Thiên Thanh Long Hải (khu Long Hải Beach Resort) và Tập đoàn Thiên Thanh (đất 209 đường Trường Chinh và khách sạn Green Plaza).
Mai Hữu Khương giao cho Nguyễn Quốc Viễn lập khống 6 giấy đề nghị vay vốn ngắn hạn cho 6 công ty và 6 phương án vay vốn ngắn hạn để hoàn thành hồ sơ vay vốn tại Ngân hàng Sacombank. Như vậy, thứ 2, Danh cùng đồng phạm đã cố tình tạo ra chứng từ giả để vay vốn.
Danh sử dụng các khoản tiền dư ở Ngân hàng VNCB làm tài sản đảm bảo cho 6 công ty trên vay của Sacombank. Tiền ở VNCB có phải của Danh hay không, nếu là tiền của khách gửi, Danh sử dụng để thế chấp vay riêng cho bản thân là lạm dụng sự tín nhiệm của khách hàng. Như vậy, thứ 3, Danh đã lạm dụng sự tin tưởng của khách hàng.
Phạm Công Danh tại phiên xét xử sơ thẩm.
Thứ 4, sau khi Sacombank giải ngân xong, toàn bộ 1.800 tỷ được chuyển vào tài khoản của 6 công ty. Ngay trong ngày, 6 công ty này chuyển 1.800 tỷ vào tài khoản ACB của Danh ở chi nhánh Phú Thọ. Danh sử dụng tiền này để trả nợ và chuyển vào tài khoản cá nhân của Danh tại Ngân hàng VNCB. Như vậy, 6 công ty pháp nhân do Danh chỉ đạo thành lập đã sử dụng tiền không đúng mục đích.
Giám đốc 6 công ty đứng tên vay 1.800 tỷ đồng là do Danh chỉ đạo lái xe, bảo vệ, nhân viên tiếp thị đứng tên. Những người này được ăn lương 5 - 10 triệu/tháng và không biết, không được sử dụng khoản vay nói trên.
Bốn yếu tố nêu trên, hành vi của Phạm Công Danh có phù hợp với tội danh "Cố ý làm trái..." hay tội "Lừa đảo...", và ông Trầm Bê là đồng phạm giúp sức.
Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, dùng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản. Nếu bị truy tố ở tội danh này, khung hình phạt đến tử hình chứ không phải chỉ 20 năm như ở tội danh "Cố ý làm trái...".
Phía Sacombank sẽ không được phép thu hồi 1.800 tỷ đồng vì thẩm định cho vay sai quy định. Tuy nhiên, chưa chuyên gia pháp luật nào dám lên tiếng về điều này (?!).
Như Dân Việt đưa tin, từ ngày 8.1 đến ngày 7.2, TAND TP.HCM đưa ra xét xử sơ thẩm vụ "đại án" Phạm Công Danh và đồng phạm đã thành lập 29 công ty để lập kế hoạch, giấy tờ vay tiền từ 3 ngân hàng: Sacombank, TPBank (Ngân hàng Tiên Phong) và BIDV gây thiệt hại cho Nhà nước 6.126 tỷ đồng.
Trong vụ án có 46 bị can và 140 người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Trong số những người có nghĩa vụ liên quan được triệu tập lần này có những cái tên quen thuộc như Chủ tịch HĐQT BIDV Trần Bắc Hà; ông chủ Tập đoàn Tân Hiệp Phát - Trần Quý Thanh cùng con gái Trần Ngọc Bích; bà Hứa Thị Phấn...
Theo Danviet
Đại án VNCB: Đề nghị thu hồi 515 tỉ đồng của "đại gia" Trần Quí Thanh Trong số tiền 6.126 tỉ đồng bị coi là thiệt hại, thì có thể thu hồi hơn 3.986 tỉ đồng từ nhiều nguồn do Danh dùng từ các khoản vay này chi trả như: BIDV Sở Giao dịch II 1.176 tỉ đồng, BIDV Chi nhánh Hải Vân 457 tỉ đồng, bà Hứa Thị Phấn 600 tỉ đồng, công ty cổ phần đầu tư...