Tổng Bí thư Trường Chinh: Người suốt đời dấn thân theo lý tưởng
“Nhìn vào sự nghiệp của Tổng Bí thư Trường Chinh, nhiều người có chung nhận xét ông là con người có những phẩm chất cần có của một nhà hoạt động cách mạng, đó là luôn luôn dấn thân theo lý tưởng” – Đại biểu Quốc hội, nhà sử học Dương Trung Quốc (ảnh)nói như vậy khi trao đổi với phóng viên Báo NTNN – Dân Việt trước ngày lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh (9.2.1907 – 9.22017).
Thưa ông là nhà nghiên cứu lịch sử, khi đánh giá về Tổng Bí thư Trường Chinh, ông thấy có nét đặc biệt gì?
- Trước hết, có thể nói ông Trường Chinh là chính trị gia chuyên nghiệp. Ông thuộc thế hệ mà chúng tôi hay gọi là thế hệ vàng. Nghiên cứu về con người và sự nghiệp của Tổng Bí thư Trường Chinh thấy có có sự đặc biệt. Đó là ông luôn xuất hiện trong những thời điểm cực kỳ quan trọng của lịch sử. Ông không chỉ là học trò xuất sắc của Hồ Chủ tịch mà còn là người góp phần kiến tạo nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với tư cách Tổng Bí thư.
Nhiều người thường nhắc tới việc Tổng Bí thư Trường Chinh cùng Ban Thường vụ T.Ư Đảng đã nhận định, phân tích chính xác tình hình, dự báo đúng diễn biến thời cuộc và ban hành Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” năm 1945 để nói về việc nắm bắt cơ hội, tạo ra động lực cho cuộc Tổng khởi nghĩa thành công. Ông cũng là người vận động xây dựng nền văn hóa mới với Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, có thể nói ông là kiến trúc sư về tư tưởng của cuộc chiến tranh nhân dân, Hồ Chủ tịch là người đưa ra nền tảng. Tác phẩm “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi” của ông vừa vạch ra con đường đi đến thành công, đồng thời giữ được niềm tin để người dân đi theo cuộc kháng chiến đầy gian khổ, bảo vệ nền độc lập.
Sau này, với cương vị là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, rồi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (Chủ tịch nước hiện nay), ông cũng có những đóng góp quan trọng. Cuối cùng, ông lại xuất hiện với cương vị là Tổng Bí thư năm 1986 (sau khi từ chức sau cải cách ruộng đất năm 1956). Không những thế, ông lại là người khởi động cho công cuộc đổi mới.
Sau Đại hội VI của Đảng ông về làm cố vấn Ban Chấp hành T.Ư Đảng. Ông qua đời ở tuổi 81 với tư thế là người vẫn hoạt động chính trị. Như thế, có thể thấy, ông là người đi trọn vẹn theo con đường chính trị và xuất hiện ở tất cả thời điểm quan trọng nhất của lịch sử.
Thưa ông, Tổng Bí thư Trường Chinh là người khởi động cho công cuộc đổi mới đất nước, yếu tố gì đã giúp ông làm được điều này?
- Nhìn vào sự nghiệp của Tổng Bí thư Trường Chinh, nhiều người có chung nhận xét ông là con người có những phẩm chất cần có của một nhà hoạt động cách mạng, đó là luôn luôn dấn thân theo lý tưởng.
Để chuẩn bị cho Đại hội VI, ông Trường Chinh đã đi thực tế tại nhiều địa phương phía Nam để nắm bắt tình hình và lắng nghe các đề xuất. Ảnh: Tư liệu.
“Một trong những yếu tố trở thành nguyên lý của công cuộc đổi mới đất nước cách đây hơn 30 năm, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là dám nhìn thẳng vào sự thật và tuân thủ quy luật khách quan. Đây là hai yếu tố rất quan trọng mà một người lãnh đạo cấp cao như ông Trường Chinh đã thực hiện”. Nhà sử học Dương Trung Quốc
Khi ông Trường Chinh còn sống, chúng tôi nhìn nhận ông là một người hết sức nghiêm túc, nghiêm khắc, kiên định, nguyên tắc. Thế nhưng, với người tưởng chừng nguyên tắc như vậy lại dám chuyển đổi khi nhận thức ra vấn đề. Tại sao nói căn bản nhất của công cuộc đổi mới là đổi mới tư duy, tức là đổi mới suy nghĩ? Nếu chúng ta đi sâu vào chi tiết sẽ thấy được yếu tố cực kỳ quan trọng dẫn tới sự thay đổi của Tổng Bí thư Trường Chinh, đó là thời kỳ ông đi thâm nhập thực tiễn ở Nam Bộ. Ông nhận thức ra rất nhiều vấn đề mà những thông tin cần thiết trước đó không đến được với ông.
Một trong những yếu tố trở thành nguyên lý của công cuộc đổi mới đất nước cách đây hơn 30 năm, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là dám nhìn thẳng vào sự thật và tuân thủ quy luật khách quan. Đây là hai yếu tố rất quan trọng mà một người lãnh đạo cấp cao như ông Trường Chinh đã thực hiện. Muốn làm được như vậy, người đó phải vượt qua được nhiều yếu tố hay thấy ở người bình thường, như là sự tự ái, chỉ mong an toàn, chỉ mong sự thăng tiến, không dám dấn thân, không dám thay đổi tư duy. Như chúng ta đã biết, ông Trường Chinh thay đổi tư duy vào thời điểm tuổi đã rất cao, phải nói đó là năng lực rất đặc biệt. Qua đó cũng thể hiện phẩm chất của ông trong tiến trình của công cuộc đổi mới.
Video đang HOT
Năm 1956, sau những sai lầm trong cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh đã xin từ chức. Là người từng phát biểu khi chất vấn tại Quốc hội khóa XIV về “văn hóa từ chức”, ông có suy nghĩ gì về câu chuyện của Tổng Bí thư Trường Chinh?
- Đối với một người hoạt động cách mạng có lý tưởng phải rời chức vụ là rất đau xót. Hiểu theo nghĩa nào đó, trường hợp ông Trường Chinh không phải là từ chức mà ông thấy trách nhiệm của mình ở đó nên rời chức vụ Tổng Bí thư. Tuy nhiên, điều đáng nói không phải câu chuyện từ chức hay không từ chức, mà là câu chuyện một người đã rơi vào hoàn cảnh như vậy vẫn tiếp tục phấn đấu, kiên trì phấn đấu.
Cuối cùng, lịch sử đã chứng minh sự phấn đấu của ông Trường Chinh đã đi đến một vinh quang khác. Ông được bầu làm Tổng Bí thư năm 1986, khởi động cho công cuộc đổi mới. Ở đây, phải nói thêm một yếu tố rất cần thiết là môi trường về mặt tổ chức.
Khi dấn thân có thể thành công, có thể thất bại, nếu người cán bộ nào thất bại mà vẫn giữ được ý chí phấn đấu vươn lên như trường hợp ông Trường Chinh, đó là phẩm chất cao quý. Tôi nhắc lại ở đây có hai yếu tố, ngoài bản thân ông còn là môi trường công tác. Từ việc như vậy phải xem đó là bài học sâu sắc trong công tác cán bộ hiện nay.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
Công cuộc 'sắp xếp lại giang sơn' trước đại hội Đổi mới 1986
Cách đây hơn 30 năm, 60 tỉnh, thành cả nước được sáp nhập lại còn 29 với kỳ vọng trở thành những "pháo đài kinh tế".
GS Đào Xuân Sâm (nguyên giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), từng là thành viên tổ tư vấn của Tổng bí thư Trường Chinh, mô tả nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 như một ngôi nhà xây theo mô hình kế hoạch hóa tập trung.
"Đây là bản thiết kế được thi công ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ; miền Bắc nước ta từ thập niên 60 và sau đó áp dụng trên cả nước từ sau năm 1975", ông nhớ lại.
Máy tuốt lúa được phân phối cho xã viên hợp tác xã ở Hà Bắc (cũ). Ảnh: TTXVN.
Theo GS Sâm, khi đất nước thống nhất, đã có những tiếng nói cân nhắc việc áp dụng "bản thiết kế" cho miền Nam do những đặc điểm riêng nơi đây - nơi những mầm mống của kinh tế thị trường đã được gieo cấy nhiều năm trước đó. Nhưng lúc này, niềm tin "chiến thắng trong chiến tranh ác liệt thì có thể thắng lợi trong xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa" đã trở thành dòng chủ lưu.
Trong ngôi nhà trên, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu được hoạch định, được chỉ tiêu hóa ở cấp Trung ương và địa phương, thông qua hệ thống Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Và cánh cửa duy nhất của ngôi nhà gần như chỉ mở ra với Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV), một tổ chức hợp tác kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam gia nhập năm 1978.
Sắp xếp lại giang sơn
Nhà nghiên cứu sử kinh tế Đặng Phong từng dành 15 năm cuộc đời để tìm kiếm tư liệu và khảo sát về "ngôi nhà" kế hoạch hóa tập trung. Theo ông, quan điểm cơ bản được xác định vào năm 1976 là "sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa".
Điều này đồng nghĩa với việc phải cải tạo tất cả những thành phần phi xã hội chủ nghĩa, quy tụ vào quốc doanh và tập thể, đồng thời tiến hành cải tạo tư sản công thương nghiệp và cải tạo nông nghiệp cá thể của nông dân. Trong công nghiệp và thương nghiệp, quốc doanh sẽ là chủ đạo. Trong nông nghiệp thì nông trường quốc doanh và hợp tác xã cấp cao là cốt lõi.
Phiếu mua thực phẩm gồm nhiều loại khác nhau. Theo quy định, phiếu B này dành cho cấp thứ trưởng. Ảnh: Tiến Dũng.
Đặc biệt, để xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không phải chỉ cải tạo các thành phần kinh tế, mà phải sắp xếp lại giang sơn. Huyện sẽ là cấp cơ bản, như những đơn vị kinh tế cơ sở, mà như vậy thì tỉnh cũ trở nên quá nhỏ bé, phải sáp nhập lại. Lúc này, hơn 60 tỉnh, thành cả nước được sáp nhập còn 29 với kỳ vọng trở thành những "pháo đài kinh tế" có quy mô sản xuất lớn.
Ở Nghệ Tĩnh, huyện Quỳnh Lưu xóa bỏ mọi làng xóm cũ, đốn bỏ vườn cây ăn trái trăm năm, nông dân di dời lên đồi cao dành đất thổ cư nhập làm ruộng lúa, hình thành những cánh đồng rộng hàng nghìn hecta cho máy cày hoạt động. Hà Nội mở rộng phía Tây lên tận Ba Vì để nuôi bò sữa, cung cấp sữa cho người già, trẻ em Thủ đô...
Theo Văn kiện Đại hội VI, cách làm cải tạo xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ "thường theo kiểu chiến dịch". Trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp miền Nam, nhiều thương nhân được đưa từ thành phố về vùng kinh tế mới để khai hoang, tổ chức sản xuất. Các xí nghiệp tư nhân chuyển thành công tư hợp doanh, thương nghiệp bán buôn của tư nhân bị xoá bỏ triệt để... Chỉ những người buôn thúng bán bưng và dịch vụ lặt vặt như sửa xe, cắt tóc thì còn tồn tại.
Trong cải tạo nông nghiệp, nhiều tỉnh phía Nam tiến hành tập thể hóa theo kiểu mệnh lệnh, gò ép nông dân vào các tập đoàn sản xuất hoặc hợp tác xã, dù trước đó họ đã quen với nếp sản xuất lẫn sinh hoạt theo cơ chế thị trường.
Hà Nội thập niên 1980, phương tiện lưu thông chủ yếu là xe đạp và tàu điện. Ảnh: Michel Blanchard.
Khủng hoảng
Ông Vũ Oanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, thuật lại trong hồi ký của mình: Giữa thập niên 1980, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục khó khăn gay gắt. Cuộc khủng hoảng kinh tế nảy sinh từ cuối thập niên 1970, do cải tạo tư sản ở miền Nam quá mức, do chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc kéo dài gần 10 năm, và càng gay gắt hơn khi xảy ra sự cố đổi tiền năm 1985.
Cảnh cấm chợ ngăn sông khiến tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trở nên nặng nề. Ông Vũ Oanh thường được cán bộ đi công tác cơ sở, bà con ở quê ra chơi kể nhiều chuyện phiền lòng. Mẹ già mang 5-10 kg gạo đi thăm con ở tỉnh khác, khi đến ranh giới tỉnh bị tịch thu, khóc lóc, van xin cũng không được.
Những phiên chợ quê, khi đội quản lý thị trường đeo băng đỏ đến tịch thu thịt lợn do tư nhân mổ chui bán, chính những người dân quanh đó lại bảo vệ người bán thịt lợn, không ủng hộ đội quản lý thị trường của nhà nước. Thật trớ trêu, bởi tư nhân mổ lợn bán thì giá thịt rẻ hợp túi tiền người dân, thịt bị tịch thu giá lại tăng vọt, người dân bình thường không thể mua nổi. Trong khi, nhà nước chỉ phân phối tem phiếu thịt giá thấp riêng cho cán bộ, công nhân viên (số lượng thật ra rất ít, khoảng 0,3-0,5 kg/người/tháng) và người dân ở thành phố (mỗi người 0,1 kg/tháng).
Nạn đói hàng tiêu dùng kéo dài triền miên, thiếu cả cây kim sợi chỉ, thiếu từng hạt muối thiếu đi, vật giá tăng mạnh.
Nhiều người ki cóp tiền gửi tiết kiệm lâm vào cảnh bi đát do đồng tiền mất giá nặng so với trước khi đổi tiền. Có người bán một con bò lấy tiền gửi tiết kiệm, sau khi đổi tiền chỉ mua được vài con gà.
Cả nước chạy ăn từng bữa
Năm 1980, thay vì dự kiến dư thừa lương thực với kế hoạch 21 triệu tấn thì Việt Nam phải nhập khẩu lương thực nhiều nhất trong lịch sử: 1,57 triệu tấn. Giai đoạn 1976-1980, tốc độ tăng GDP hàng năm của Việt Nam chỉ đạt 1,4%, thậm chí năm 1980 còn -1, tăng thu nhập quốc dân chỉ đạt 0,4%.
Bơm mực bút bi - nghề chỉ có trong thời bao cấp. Ảnh tư liệu.
Tất cả khó khăn, ách tắc ấy dội vào cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. "Trăm thứ thứ gì cũng phân", "mặt buồn như mất sổ gạo" là những câu cửa miệng một thời. Cuốn sổ gạo trở thành tài sản quý hơn vàng, nhà nào làm mất coi như đói cả tháng.
"Tiêu chuẩn 13 kg gạo mỗi tháng sụt xuống còn chưa đầy 5 kg. Có đợt hết gạo, cửa hàng mậu dịch phát bánh mì hoặc bột mì để dân mang về luộc, hấp. Gạo viện trợ đa số về tới Hà Nội là mốc vàng, vón cục", bà Phạm Thị Minh Tâm (Hoàn Kiếm) từng là mậu dịch viên lương thực kể.
Vật lộn với khó khăn của thời bao cấp, người dân nghĩ ra mọi cách cải thiện cuộc sống: Công chức nuôi lợn trong các khu tập thể, nhà cao tầng; thầy cô giáo sáng tạo ra những nghề phụ như rút lốp xe đạp, bơm mực bút bi, lộn cổ áo sơ mi...
Những người lính trở về sau chiến tranh cũng lao vào vòng xoáy mưu sinh, đi vào trong câu ca một thời: Đầu đường đại tá bơm xe/ Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen/ Trung tá đi bán cà-rem/ Thiếu tá thì bận thổi kèn đám ma...
Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch, trong quyết định giá cả lương thực và hoạt động của doanh nghiệp đã giúp cải thiện tình hình ở một số địa phương, phá dần "vòng kim cô" của sản xuất.
Mùa đông năm 1986, cách đây đúng 30 năm, Đại hội VI diễn ra tại Hà Nội với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", quyết định chuyển hướng chiến lược: Đổi mới!
Hoàng Phương
Theo VNE
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức nước CHND Trung Hoa Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, sáng 12/01/2017, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã rời Hà Nội đi thăm chính thức...