Tới Quy Hòa dạo vườn nhân ái
Mới đầu hơi ngài ngại khi nghe Tuấn – lái xe của hãng Sun Taxi – nói là sẽ đưa chúng tôi tới thăm làng phong Quy Hòa, nhưng rồi tôi bị thuyết phục bởi Cô chú mãi ngoài Hà Nội vô mà không tới thì phí lắm.
Bãi biển Quy Hòa.
Miền yên ắng lạ
Quả đúng như Tuấn đã nói, “làng phong Quy Hòa” như cách gọi xưa nay hay “bệnh viện Phong và Da liễu Quy Hòa” như tên gọi chính thức hiện nay, tựa như một ngôi làng chài nằm sát bờ biển rì rào sóng vỗ.
Một “ngôi làng đặc biệt” với hơn 1.100 nhân khẩu trong đó có hơn 500 người vẫn phải sống bằng tiền trợ cấp xã hội, nép mình vào chân núi nên có cảm tưởng khi tới nơi đây ta như lạc vào một miền yên ắng lạ. Tuấn hào hứng: “Nếu ở lại đây đêm nay, cô chú sẽ thấy trăng sà xuống biển. Cô chú sẽ có cảm giác lành lạnh, đơn côi và buồn đẫm mắt”.
Ái chà, cậu lái taxi này không biết “lây thơ” từ khi nào. Cảnh ấy, người ấy nên thảo nào thi sĩ họ Hàn đã từng thốt lên: “Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối/Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.
Nằm cách trung tâm thành phố Quy Nhơn chừng 4 cây số và thuộc địa bàn phường Ghềnh Ráng, bãi biển Quy Hòa có phần tĩnh vắng chứ không rộng dài ồn ào như bên Quy Nhơn. Thực ra nếu không có một ghềnh đá lô nhô trơn trượt thì chẳng cần phải làm cuốc ta xi từ trung tâm thành phố Quy Nhơn vòng qua dãy núi để tới bãi biển “làng phong”.
Sự ngăn cách ấy đã vô tình cho ta cảm tưởng bãi biển Quy Hòa như biệt lập vậy. Thảo nào hồi trước người Pháp đã chọn nơi này làm nơi chữa chạy cho những người không may mắc phải căn bệnh bị xã hội ruồng bỏ.
Nắng lên cao. Bãi biển Quy Hòa phơi mình hóng gió. Khỏa mình trong nước biển mặn mòi, ngồi ẩn im dưới rặng phi lao lao xao gió hát hay tung tăng trên dải cát phẳng phiu là những cặp yêu nhau, là những tốp gái trai nắm tay nhau quay thành vòng tròn giỡn sóng, là một gia đình nào đấy. Khung cảnh thật yên bình và cũng thật ấm êm.
Được thành lập từ năm 1929, cho tới nay “làng phong Quy Hòa” đã vào “cái tuổi cửu tuần”. Đã chín mươi năm trôi qua, hẳn linh mục Paul Maheu, người tìm ra thung lũng này để xây dựng một khu điều trị bệnh nhân phong sẽ không ngờ cái nơi xa vắng ấy đã thoát xác.
Chúng tôi đồ rằng, nếu như còn sống đến hôm nay chắc chắn ông cũng sẽ không thể hình dung được rằng nơi ông chọn đã trở thành một tiềm năng du lịch lớn cho tỉnh Bình Định.
Tuấn vừa lái xe vừa tranh thủ “thuyết minh” vắn tắt đã như hữu ý đưa chúng tôi thẳng tới khu mộ an táng lần đầu của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Một ngôi mộ khá thanh thoát nằm giữa những ngôi mộ của những con người không may khác.
Tôi thẫn thờ, hình như thi sĩ vừa ngang qua, dáng mệt mỏi và đượm buồn, chàng vừa bước đi vừa khe khẽ đọc thơ: “ Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả/Trơ vơ buồn và không biết kêu ai/Bức thư kia sao chẳng viết cho dài/Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa”.
Ấy là thi nhân nói về cái hồi ngày trước vậy thôi chứ cảnh đây người đấy bây giờ đã khác xa khác lắm. Ánh nắng chiếu chênh chếch, ánh nắng xuyên qua tán lá đang vẽ ra dưới nền cát trắng vô vàn những hình nan quạt. Làn gió từ biển thổi tới chợt lắng lại, mát và thân thân.
Chức nghiệp thiêng liêng
Đập vào mắt tôi là một khu vườn vô cùng ấn tượng. Tuấn hồ hởi chỉ tay vào tốp thanh nữ áo dài trắng, áo dài tím đang í ới gọi nhau. Tốp thanh nữ đang say sưa chụp hình, tiếng cười giòn như nắng hát vậy.
“Vườn nhân ái đó cô chú”, vẫn giọng nói nhiệt tình bằng thứ giọng Bình Định hơi khó nghe, Tuấn chừng hứng khởi không thua mấy tốp thanh nữ kia.
Năm 1984, bác sĩ Trần Hữu Ngoạn vác “ba lô” từ Nghệ An vào Bình Định làm Giám đốc Bệnh viện Phong và Da liễu Quy Hòa. Người đàn ông tuổi ngũ tuần ấy từng nổi tiếng với “chuyện” đưa vi khuẩn Hansen vào người mình để thí nghiệm cho một công trình nghiên cứu về bệnh phong đã “ngợp lòng” trước vẻ đẹp kỳ thú của bãi biển Quy Hòa.
Ông cũng quá hiểu tâm sự của những bệnh nhân khi họ dường như “đã bước vào đây” là như đã đi “sang một thế giới khác”, một “thế giới tách biệt” với gia đình, bạn bè nên ông đau đáu nghĩ suy với chỉ một mục tiêu là làm gì để người mắc bệnh phong cũng được thụ hưởng như những gì người bình thường khác có? Làm gì để người mắc bệnh phong cảm thấy tự tin chữa bệnh và cảm thấy cuộc sống không tẻ nhạt?
Video đang HOT
Tôi hỏi: “Tuấn có biết gì nhiều về bác sĩ Trần Hữu Ngoạn không?”, cậu lái xe trẻ chưa vợ con này không ngờ cũng biết khá khá: “Vì cháu hay chở mọi người đến đây mà. Biết để kể cho mọi người cùng biết thôi”.
Thế đấy, một khi có trách nhiệm, có ý thức thì ai cũng có thể trở thành một hướng dẫn viên du lịch được.
Tuấn cho hay chính bác sĩ Ngoạn đã đưa ra lý thuyết chữa bệnh phong không chỉ đơn thuần bằng thuốc. Ông đã làm mọi cách để biến bệnh viện phong của ông thành khu du lịch để người bệnh được tiếp xúc với cộng đồng, xóa đi mặc cảm.
Ông còn tạo việc làm cho người bệnh bằng cách để các công trình xây dựng cơ bản của bệnh viện, kể cả việc bê tông hóa một con đường đèo dài cả cây số cho người bệnh đã ổn định bệnh tật nhận làm kiếm thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Những người bệnh phong thường bị gia đình ruồng bỏ, nếu không có lòng yêu thương của người thầy thuốc, họ khó bề sống được để vượt qua bệnh tật…
Vườn nhân ái.
Và bác sĩ Ngoạn đã dành trọn 10 năm công tác của mình ở nơi đây để đạt cho được ý tưởng những tưởng khó thành ấy. Năm 1995, tức là một năm sau ngày bác sĩ Ngoạn nghỉ hưu, thì “vườn Nhân ái” chính thức đón mọi người, người bệnh và người lành, đến vui chơi, dạo mát và… chụp ảnh.
Vườn có nhiều cây lâu năm, tán lá rộng và thân cao nên khá thoáng đãng và mời gọi. Từ cổng chính bệnh viện đi vào theo con đường bê tông thẳng tắp ta sẽ thấy, bên trái sát chân núi là khu nghĩa địa cũ (mộ Hàn ở đó), bên phải là khu nhà ở của bệnh nhân và đằng trước mặt là bãi biển nước xanh và gió mát đến không ngờ.
Ngự ở giữa một không gian như vậy nên vườn Nhân ái trở thành khu vui chơi của bệnh viện, thành điểm đến lý tưởng cho những ai “dạo bước đường xa” đến đây ngắm cảnh, tắm biển và để thương người.
Đến đây ta hoàn toàn bị mê hoặc bởi một môi trường thanh sạch và “đẹp đến không ngờ” và hơn nữa chính là bởi hơn bốn mươi bức tượng đá được tạc dạng chân dung khá kỹ lưỡng.
Tôi đang được tham quan một “phòng” trưng bày tượng ngoài trời với một tinh thần nhân ái. Bức tượng bác sĩ Hippocrate trầm ngâm như đang vẳng lên lời thề “Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh tùy theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công”.
Và kia, bức tượng Danh y Hải Thượng Lãn Ông râu tóc bạc phơ đẹp như một tiên ông thương người vô hạn. Lại nữa, tượng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nhìn giản dị khiến ta nhớ lại hành động dũng cảm khi ông tự tay tiêm vi trùng sốt rét vào người mình để tìm ra thuốc điều trị sốt rét giữa đại ngàn Trường Sơn những năm đánh Mỹ.
Rất nhiều. Rất nhiều những gương mặt đáng kính. Những con người trị bệnh cứu người ấy rất đáng để chúng ta nói chung, để những bệnh nhân phong nói riêng tri ân và ngưỡng vọng.
Phấn khởi tự hào hiện rõ trên nét mặt của Tuấn – chàng trai xứ Nẫu – khi thì gọi “chú ơi”, lúc thì “bên này chụp hình đẹp lắm cô ạ”. Động tác ấy đã biến Tuấn không còn là người lái taxi kiếm tiền nữa, cậu đang đóng vai trò của một “tình nguyện viên” nhiệt tình và hiểu biết.
Nắng lên cao cao, lại văng vẳng những vần thơ của Hàn: “Máu tim ta tuôn ra làm bể cả/Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi/ mSóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ/Dâng cao lên, cao tột đến trên trời” khi chúng tôi đứng trên “Vọng giác đài” mà trông ra biển.
Tác giả bên mộ Hàn Mặc Tử ở làng phong Quy Hòa.
Biển Quy Hòa xanh ngăn ngắt. Gió Quy Hòa mát rười rượi. Và người Quy Hòa vô cùng thân thiện. Phía xa xa những con thuyền mê mải với công việc đánh bắt cá của mình. Ánh nắng soi xuống mặt nước luếnh loáng bạc. Mặt biển bỗng trở nên mênh mang và gợi cảm.
Bất chợt tôi ngoái nhìn lại sau lưng, Vườn Nhân ái như tươi xanh thêm lên, như rộng ra. Tôi đã thấy rất nhiều, rất nhiều những gương mặt bao dung, những vầng trán nghĩ suy, những cái nhìn thiện cảm, những nụ cười hài lòng và đâu đó đang âm thầm vang lên những câu những lời cảm tạ.
Cuộc sống không ngừng trôi chảy và không ngừng chia sẻ: “Hành nghề y là bổn phận, chức nghiệp thiêng liêng đòi hỏi một lương tâm, một lòng bác ái và hy sinh lớn lao, không thể coi như nghề nghiệp kiếm sống thông thường”…
Ngôi làng nơi thời gian ngừng chảy
"Giữa trưa nắng liêu diêu, cậu trai trạc 20 nằm gối đầu lên chân bà. Bàn tay xanh xám của bà vuốt mãi từng lọn tóc của cậu, miệng se sẽ lời hát. Cậu thì nheo nheo ánh mắt cười, đôi mắt như dòng sông."
"Con có định đến thăm nơi bình yên nhất Hàn Mặc Tử từng ở không?"
"...Là đâu ạ?"
"Cái làng bác vừa đi qua đó."
"À, vâng, sẽ ạ."
Tôi đáp vội bác tài xế, trên chuyến xe từ sân bay vào trung tâm thành phố Qui Nhơn. Trong đầu cũng tự nhẩm lại từ khóa "làng Hàn Mặc Tử" và định bụng về khách sạn sẽ search Google cụ thể sau. Nào ngờ, địa danh ấy chẳng hề có trên bản đồ.
"NƠI BÌNH YÊN NHẤT HÀN MẶC TỬ TỪNG Ở"
Hàn Mặc Tử (1912-1940), nhà báo, nhà thơ, sinh ở Quảng Bình và mất ở Qui Nhơn. Thơ của anh, vì điên cuồng và siêu thực, nên không phải ai cũng biết, cũng thuộc, cũng yêu thích. Song câu chuyện chàng thi sĩ đa cảm, mắc phải căn bệnh phong và trải qua những ngày tháng cuối đời trong đau đớn thì có lẽ ai cũng từng nghe. Nơi chứng kiến những ngày tháng cuối đời ấy của Hàn Mặc Tử chính là ở Qui Nhơn, trong Trại phong Quy Hòa.
Vào khoảng năm 1929, linh mục người Pháp Paul Maheu phát hiện ra sự trong lành, nguyên sơ hiếm có của vùng đất này, ông quyết định xây dựng một khu điều trị cho bệnh nhân phong mang tên Bệnh viện Laproserie de Quy Hoa. Năm 1932, bệnh viện được Charles Antoine và Ozithe xây dựng lại, có cả khu nhà để người bệnh đến đây điều trị lâu dài. Ngoài bệnh viện, trong khuôn viên Quy Hòa còn có nhà thờ, nơi ở của các nữ tu và hơn 200 ngôi nhà dành cho bệnh nhân phong định cư. Năm 1936, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong và đến sống những năm tháng cuối đời ở Quy Hòa.
Ngày nay, bệnh viện đã được nâng cấp khang trang, hiện đại hơn; căn bệnh phong cũng đã có thuốc chữa. Song những gia đình có bệnh nhân phong, vì đã dành một phần lớn cuộc đời sống ở nơi này, họ vẫn lựa chọn ở lại.
NGÔI LÀNG GIỮA NHỮNG NẤM MỒ
Chuyến đi biển 3 ngày của tôi đã phải đổi thành 4 ngày, chỉ vì tôi không thể tìm được đường vào Trại phong Quy Hòa và vẫn quyết tâm dành thêm một ngày để tìm kiếm nó, đến khi nào tìm được mới thôi.
Trên Internet cũng chỉ có loáng thoáng vài bài viết về Trại phong, trên Google Maps thì không có địa danh đó. Tôi cứ đến và đi khỏi khu vực Ghềnh Ráng, làng Quy Hòa trong một vòng luẩn quẩn. Đứng từ trên cao tốc nhìn xuống, làng Quy Hòa nằm uốn mình theo dải biển hiền hòa. Trên đường đi vào làng, lại đi qua ICISE - một công trình kiến trúc, khoa học và giáo dục nổi bật của Qui Nhơn nằm ngay bên biển, toát ra đầy đương đại, khoáng đạt và yên bình (mà tôi đã tự hứa lần sau quay trở lại nhất định sẽ ghé vào).
Nhưng Trại phong thì trốn ở đâu?
Rút cục, tới gần 11 giờ trưa, tôi đi đến tận cùng của ngôi làng thì dừng xe lại trong thất thểu. Tận cùng của ngôi làng là khu nghĩa trang, các ngôi mộ cũ kỹ nối nhau trập trùng. Bỗng chợt ngoảnh sang trái, lù lù trước mắt tôi là một cây cổng gầy guộc với tấm biển viết "Trại phong Quy Hòa".
Một góc làng Quy Hòa nhìn từ xa; phía bên trái là công trình Viện Nghiên cứu Khoa học và Giáo lục Liên ngành Qui Nhơn
Điều tôi buộc phải chú ý nhất ở đây là... những ngôi mộ. Quá nhiều mộ cho một nơi ít ỏi dân sinh. Ngay vị trí tọa lạc của Trại đã nằm kế bên nghĩa trang làng Quy Hòa; vào trong Trại, đi được một đoạn đường sẽ đến căn nhà dành riêng cho du khách thắp hương, tưởng niệm những bệnh nhân có lai lịch "đặc biệt" đã qua đời (vì phong) ở nơi này. Đi đến cuối Trại, nơi cỏ cây xanh nhất, cũng là nơi người đã khuất nằm nghỉ. Trong số những bia mộ trắng xóa, đâu đó từng là nấm mồ của Hàn Mặc Tử.
Có thể chính điều này hình thành nên bầu không khí yên ả, trầm tĩnh của Trại. Bất cứ ai tôi gặp - bác bảo vệ, người dân hay lũ trẻ đi học về, họ đều yên tĩnh lạ kì. Chẳng phải là toát ra vẻ tẻ nhạt hay đau yếu; họ chỉ đơn giản là rất nhẹ nhàng. Cũng có lẽ, hiếm ai được sống trong một thế giới đặc biệt và "nghịch lý" như người dân của Trại phong Quy Hòa. Một mặt cuộc sống đẹp như cổ tích, với biển xanh, nắng dịu; thời gian không hiện qua tivi, điện thoại, mà chảy trên sự sống của hoa lá cỏ và muôn thú. Một mặt, cái chết cũng hiện hữu mồn một trong cuộc sống họ - ngay kế bên căn nhà, ngay trong những bước đi dạo quanh.
Ai có thể khiến con người biết yêu cuộc sống, hơn chính vị thần Chết?
SÓNG VỖ, LỜI RU,
Nơi duy nhất trong Trại luôn mở sẵn cửa chào đón người lạ, là "nhà lưu niệm Hàn Mặc Tử". Trong căn nhà vẫn giữ lại những đồ đạc anh từng sử dụng ở đây, trên tường có treo một số bút tích, di ảnh và cả những dòng thơ bạn bè viết tặng cuộc đời anh.
Cây và hoa thì bạt ngàn khắp mọi lối đi, tạo ra những góc chụp hình rực rỡ cho du khách. Điểm cuối của mọi ngã rẽ đều hướng ra bãi biển Quy Hòa, nước trong xanh rười rượi. Dĩ nhiên bạn không thể (không nên) đến đây để tắm biển, nhưng tôi có thấy một vài nhóm bạn trẻ đến đây để picnic với cơ man đồ ăn, đồ uống. Đó đều là những người đi picnic yên tĩnh nhất tôi từng thấy.
Một điểm độc đáo khác của Trại, là màu sắc - kiến trúc của những ngôi nhà. Đó đều là những ngôi nhà cấp 4 vuông vức của thế kỷ 20, được kết hợp bởi nhiều tông màu dịu dàng và tươi sáng; trước mỗi lối vào nhà là những luống cây, hoa tạo điểm nhấn rực rỡ cho tổng thể khuôn viên. Kì lạ nhất là mỗi ngôi nhà một cách pha trộn màu sắc, khác biệt mà lại thống nhất; không nhà nào trùng lặp nhà nào, mà cũng không ai tách biệt khỏi ai.
Ở một góc khác khuất hơn, các gia đình đều dựng một chòi nhỏ phía đối diện căn nhà của họ. Chòi có mái che bằng vải, họ đặt ở đó vài mảnh chăn hoặc gối mỏng để làm nơi ngồi thư giãn.
Lúc tôi chạy xe qua đây là 12 giờ trưa, tuy không quá nóng nhưng nắng vẫn như thiêu, mọi người đều ở hết trong nhà. Duy nhất căn nhà này, có hai người đang ngồi im-như-tờ trong chòi của họ. Một người bà và một cậu cháu trai.
Giữa trưa nắng liêu diêu, cậu trai trạc 20 nằm gối đầu lên chân bà. Bàn tay xanh xám của bà vuốt mãi từng lọn tóc của cậu, miệng se sẽ lời hát. Cậu thì nheo nheo ánh mắt cười, đôi mắt như dòng sông.
Tôi vẫn cố ghi nhớ đôi mắt ấy. Tôi mong mình ghi nhớ cả đời. Nó khiến tôi chợt hiểu, vì sao đến thế hệ trẻ cũng chọn lớn lên ở trong nơi này.
VÀ "CHÓ VẪN SỦA"
Tôi đoán vì sự tĩnh mịch của Trại phong mà nơi này hiếm bóng khách du lịch. (Vậy mà tôi thì dành hẳn nửa ngày ở đây để hít hà vào người cái sức sống ấy). Nhưng thực ra nơi này cũng không tĩnh mịch quá - vẫn còn tiếng chó sủa.
Đám bò, gà được nuôi trong Trại thường hay tập kết ở nơi "phong thủy hữu tình" nhất - ngay kế bên bãi biển. Chúng ở đó nhẩn nha gặm cỏ, đi đi lại lại bên những hàng cây, tắm táp gió biển. Thế rồi lạc lõng từ đâu ra xuất hiện một con chó, không có bầy đàn bạn bè. Nó sẽ tìm cách tiếp cận vào đàn bò, sủa nhặng lên, rồi chạy bán sống bán chết khi đàn bò toan quay ra gầm gừ. Năm phút sau cảnh ấy tái diễn: con chó lại sủa, đàn bò lại gầm gừ, chó ta lại chạy. Cứ thế, và chỉ cần thế thôi.
Thông tin thêm
Theo các tư liệu ghi chép để lại, Hàn Mặc Tử trong quãng thời gian điều trị bệnh ở Quy Hòa có thân thiết với hai người bạn: một là anh điều dưỡng của Trại, hai là anh bán hàng nước. Trước khi qua đời, Hàn Mặc Tử đều đem tặng cả hai người một số tập thơ cuối cùng mình sáng tác. Anh hàng nước được tặng "nhiều hơn" vì có được Hàn Mặc Tử quý mến hơn, do anh là người duy nhất vô tư bầu bạn với Tử trong quãng thời gian cô độc cuối đời.
Điều đặc biệt là anh hàng nước vốn nghèo, không biết chữ, lại càng không biết Hàn Mặc Tử là... Hàn Mặc Tử. Sau khi nhà thơ mất, những trang giấy thơ dần dà bị anh xé ra để dùng làm giấy vệ sinh.
Bình Định & những vùng biển mê đắm Sài Gòn những ngày dịch dã buồn tê tái. Tôi nhốt mình trong phòng từ sáng tới tối, may mà còn có vài trận banh níu chút cảm xúc mong manh...! Chuông điện thoại reo, giọng thằng bạn thời đại học vang lên "Ông có ở quê hông, sáng mai tui xuống Mũi Rồng". Tôi tiu nghỉu, đành chậm rãi hướng dẫn cho...