Tổ chức trọng thể Lễ viếng và truy điệu Trung tướng Lê Hai
Ngày 26/1, Tổng cục Chính trị (TCCT) QĐND Việt Nam; Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ, Hội Cựu chiến binh phường Cửa Đông ( quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) và gia đình đã tổ chức trọng thể Lễ viếng và truy điệu Trung tướng Lê Hai – Nguyên Phó Chủ nhiệm TCCT QĐND Việt Nam.
Đoàn đại biểu Tổng cục Chính trị do Thượng tướng Lương Cường làm Trưởng đoàn tới viếng. Ảnh Báo Quân đội nhân dân
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; Đại tướng Lê Đức Anh-nguyên Chủ tịch nước; ông Trần Quốc Vượng-Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư gửi vòng hoa kính viếng.Tham gia lễ viếng có Đoàn đại biểu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng do Đại tướng Ngô Xuân Lịch-Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Trưởng đoàn.
Đoàn đại biểu TCCT do Thượng tướng Lương Cường-Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm TCCT, Trưởng ban Tổ chức lễ tang. Tham gia các đoàn viếng có: Thượng tướng Phan Văn Giang – Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa-Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm TCCT; Thượng tướng Phạm Ngọc Minh, Phó Tổng Tham mưu trưởng; các Phó chủ nhiệm TCCT, Phó Trưởng ban tổ chức lễ tang: Trung tướng Đỗ Căn, Trung tướng Lê Hiền Vân…
Trung tướng Lê Hai sinh ngày 28/10/1927 tại An Lý, Hải Phòng; nguyên quán: Xã Quảng Minh, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là xã Mỹ Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội), là cha đẻ Trung tướng Lê Thu Hà-Nguyên Chính ủy Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nữ Trung tướng duy nhất của Việt Nam.
Sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, tháng 3/1945, ông tham gia mặt trận Việt Minh tại Hải Phòng và tham gia khởi nghĩa thành lập chiến khu Đông Triều. Tháng 12/1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. 60 năm hoạt động, làm việc, ông đã kinh qua nhiều chức vụ.
Từ buổi đầu tham gia hoạt động cách mạng đến khi về cõi vĩnh hằng, Trung tướng Lê Hai luôn là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng, giữ trọn danh hiệu cao quý của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, sống liêm khiết, trung thực, giản dị, đoàn kết, chan hòa, giàu lòng nhân ái, gần gũi, yêu thương, gắn bó với cán bộ, chiến sĩ, luôn nêu cao phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ; một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Video đang HOT
Với những công lao cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và quân đội, Trung tướng Lê Hai đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương và Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
Nhật Tuấn
Theo PLVN
Vị Đại tướng có dự cảm đặc biệt về cuộc chiến biên giới Tây Nam
Theo Đại tướng Phạm Văn Trà, trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, thủ trưởng của ông - Đại tướng Lê Đức Anh, đã có dự cảm chính xác về tình hình Campuchia.
Lúc đó trên cương vị là Tư lệnh Quân khu 9, ông Lê Đức Anh không cho bộ đội ra quân nhiều, đồng thời thành lập thêm một sư đoàn tinh nhuệ.
Năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. (Ảnh: TTXVN)
Nhân sự kiện lịch sử 40 năm chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã kể với PV Dân Việt về kỷ niệm và ấn tượng của ông với Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước. Ông Lê Đức Anh từng là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu tại Campuchia.
Đại tướng Phạm Văn Trà nhớ lại: Sau giải phóng miền Nam, tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh Quân khu 9. Thời điểm đó dường như ông đã có một sự linh cảm về tình hình Campuchia nên đã có những bước chuẩn bị nhất định.
Quân khu 9 đã có Sư đoàn 4, Sư đoàn 8 nhưng ông vẫn đề nghị và cho thành lập Sư đoàn 330, gồm những trung đoàn mạnh nhất. Trung đoàn 1 U Minh do ông Phạm Văn Trà làm trung đoàn trưởng được biên chế vào Sư đoàn này. Tướng Lê Đức Anh chỉ đồng ý những đơn vị quân đội thiên về làm kinh tế được cho bộ đội phục viên. Riêng những đơn vị chiến đấu, từ cấp tiểu đội trưởng trở lên ông giữ lại hết.
Đại tướng Phạm Văn Trà trả lời phỏng vấn báo chí về chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. (Ảnh: Huỳnh Xây)
Tính từ năm 1975 -1977, quân Pôn Pốt đã rất nhiều lần tấn công vào biên giới nước ta. Đến 30.4.1977, chúng đánh quy mô cấp sư đoàn. Đối với Quân khu 9, lực lượng chiến đấu nhờ có sự chuẩn bị nên đã anh dũng chặn đánh chặn địch và giữ được đất đai.
Còn ở phía khu vực do Quân khu 7 và Quân đoàn 4 quản lý, khi quân Pôn Pốt tấn công đã gây tổn thất (thương vong lớn) cho ta. Khi quân địch đã đánh sâu vào nước ta, Bộ Quốc phòng phải điều Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) về trấn thủ Tây Ninh để chặn bước tiến quân thù.
Sau đó, tướng Lê Đức Anh được điều động về làm Tư lệnh Quân khu 7, và làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Campuchia tiêu diệt tập đoàn Pôn Pốt.
Trên cương vị, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam, ông cũng có quyết định sáng suốt. Ông kiên quyết chỉ đạo phải đánh Pôn Pốt đến tận sào huyệt cuối cùng, nơi đó gần biên giới với Thái Lan.
Pôn Pốt lúc đó lực lượng còn mạnh, lại được sự hậu thuẫn của một số nước lớn, nhiều tướng lĩnh sĩ quan cũng khuyên ông nếu cho bộ đội tấn công ra khu vực này sẽ rất ác liệt. Tuy nhiên tướng Lê Đức Anh kiên quyết yêu cầu thực hiện chỉ đạo của mình.
Tỉnh cảm đặc biệt của người dân Campuchia dành cho Bộ đội tình nguyện Việt Nam: (Ảnh tư liệu)
Sau khi đánh đuổi bọn Pôn Pốt chạy sang phía Thái Lan, tướng Lê Đức Anh cho lập phòng tuyến để giữ đất (trồng tre, cắm chồng, gài mìn). Quân Pôn Pốt tấn công trở lại nhưng vấp phải phòng tuyến vững chắc này và dần suy yếu đi.
Thời điểm này, ở trong nước quân đội ta tiến hành thực hiện nghị quyết theo mô hình của Liên Xô là không tổ chức Đảng ủy Quân sự, chỉ sinh hoạt chi bộ Đảng, thành lập Hội đồng Quân sự, Hội đồng chính trị. Lúc đó, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam cử tướng Đặng Vũ Hiệp sang Campuchia để phổ biến nghị quyết trên với lãnh đạo Quân tình nguyện Việt Nam.
Khi tướng Hiệp sang đến nơi gặp tướng Lê Đức Anh, tướng Anh nói ngay: Anh về nói với anh Chu Huy Mân (Đại tướng - Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị lúc đó) và Bộ trưởng Quốc phòng rằng bên này chúng tôi đang chiến đấu, cần phải có Đảng lãnh đạo, nếu không có Đảng lãnh đạo thì không chiến đấu được. Hiện chúng tôi không thể chấp hành nghị quyết trên. Khi nào rút quân về nước chúng tôi sẽ thực hiện nghị quyết sau (mô hình tổ chức theo Liên Xô sau một thời gian áp dụng đã bỏ và quay lại cách tổ chức Đảng ủy Quân sự như trước đây).
Sau thời gian chỉ huy chiến đấu ở Campuchia, tướng Lê Đức Anh về nước giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Năm 1989, ông cho Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước hết. Nhiều cán bộ sĩ quan cấp cao lo ngại nếu bộ đội Việt Nam về hết, tàn quân Khmer Đỏ sẽ trỗi dậy, phục hồi lực lượng và tấn công lại lực lượng vũ trang cách mạng của Campuchia, có khi phải quân đội Việt Nam lại phải ra phòng thủ biên giới Tây Nam.
Tuy nhiên Đại tướng Lê Đức Anh đã tin tưởng chính quyền và lực lượng vũ trang của nước bạn có thể đứng vững, ông kiên quyết rút hết quân chỉ để lại các chuyên gia ở lại giúp nước bạn.
Đại tướng Lê Đức Anh sinh năm 1920, quê Thừa Thiên - Huế, ông nguyên là Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trước đó ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam; Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia...
Theo Danviet
UBKT Quân ủy Trung ương đề nghị khai trừ, cảnh cáo 8 đảng viên Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương vừa xem xét, đề nghị thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm theo thẩm quyền. Trong đó phải xử lý kỷ luật về Đảng 8 đảng viên (khai trừ: 3, cảnh cáo: 5); kỷ luật về quân đội 11 đồng chí (tước danh hiệu quân nhân: 5; cách chức, giáng...