Tô canh lớn ở miền Tây
Đi công tác nên đành ăn tối một mình, khá muộn, ở Cần Thơ. Chọn lấy một nhà hàng bình thường nằm cạnh một cây cầu, gió sông mát mẻ, tôi coi như mình sẽ được an nhiên với bữa tối nhẹ nhõm.
Một suất cơm đĩa. Tôi gọi thêm phần canh khổ qua cá thác lác. Đã cố dặn cô phục vụ, dặn đi dặn lại, rằng, tôi chỉ cần tô canh nhỏ một người ăn, hoặc một chén thôi cũng được, vì sợ ăn không hết và lãng phí.
Cô phục vụ lắc đầu nói nhà hàng chỉ bán một tô canh với giá trong menu chứ không bán ít hơn. Tôi hiểu cô ấy chẳng thể làm khác quy định về giá bán đã ghi trong menu, nên nói thẳng là chỉ cần một chén canh thôi và tính tiền một tô như giá trong menu cũng được. Miễn là đừng lãng phí.
Nhưng rồi tôi muốn xỉu khi nhìn thấy tô canh được bưng ra. Ôi trời, phải ba bốn người ăn chưa chắc đã hết. Phải nói theo kiểu Nam bộ là tô canh bự chảng. Nói theo kiểu mấy quán bán nước mía đường phố là tô canh khổng lồ.
Cái cảm giác bực bội bỗng dưng ập đến khiến bữa ăn tưởng là nhẹ nhõm trở nên đầy áp lực. Thà mình không lưu ý trước, đằng này dặn đi dặn lại mấy lần, cũng đã thỏa thuận luôn chuyện trả giá như ghi trong menu rồi, thế mà vẫn cứ nhất quyết bưng ra một tô canh lớn.
Có lẽ những người làm nhà hàng chưa biết một chuyện, rằng khi họ kinh doanh ẩm thực ở phân khúc của một nhà hàng, thì trải nghiệm ẩm thực của khách hàng không đơn giản chỉ là món ăn nhiều thịt cá, nêm nếm gia vị vừa miệng, tô lớn tô nhỏ, hay trình bày kiểu cách. Trải nghiệm ẩm thực của khách hàng thật ra còn nhiều yêu cầu khác, tinh tế hơn.
Chẳng hạn với tô canh bự chảng, khổng lồ khiến tôi cảm thấy như mình có lỗi. Nhà hàng bỗng dưng đẩy khách vào vai một kẻ lãng phí thực phẩm. Liệu như thế bữa ăn có còn ngon miệng, nếu vì tiếc mà ăn thật nhiều? Liệu như thế bữa ăn có còn nhẹ nhõm, nếu vì không thể ăn hết mà bỏ mứa thức ăn? Ẩm thực xét cho cùng không chỉ cần hài hòa với vị giác – khứu giác – thị giác, mà còn phải hài hòa với mong muốn và nhu cầu của thực khách nữa.
Video đang HOT
Tôi nhờ cô nhân viên phục vụ thêm một cái chén không, rồi múc một phần canh ra chén. Miễn là phần canh còn lại trong tô không phải là một phần canh ăn thừa, thế có khi sẽ phù hợp hơn để được ai đó dùng lại. Tôi nhìn đồng hồ, bữa tối của tôi đã khá muộn. Giờ này thì phần canh tôi cố lịch sự để lại chưa chắc đã được dùng lại. Biết đâu nó cũng sẽ bị đổ đi mà thôi.
Trưa hôm sau ăn cùng với ba người bạn Cần Thơ ở một quán khác, tôi cũng mém xỉu lần nữa, lần này là với một nồi (lẩu) canh bự chảng, mà đến khi về chúng tôi phải để thừa hơn nửa nồi.
Những tô canh lớn, bự chảng, như thể một bằng chứng hiển hiện của tấm lòng miền Tây rất rộng rãi, khoáng đạt. Nhưng dường như trong nghệ thuật kinh doanh ẩm thực, cũng nên điều chỉnh để không trở thành một thói quen lãng phí khiến không ít thực khách cảm thấy muộn phiền.
Theo Thanhnien
Tối giản trong ẩm thực thời chiến - Kỳ 3: Món chuột nướng miền Tây thơm lừng
Hai Hoàng vừa đánh chết được mấy con chuột ăn gạo trong kho gạo cơ quan. Không phải Hai Hoàng quá tích cực bảo vệ kho gạo, mà đơn giản hơn, anh rình bẫy chuột, đánh chuột ăn gạo để mấy anh em chúng tôi ăn...chuột.
Ảnh minh họa: TNO
Có những lúc ở rừng cũng thật đáng nhớ. Tôi nhớ, nhiều đêm ở rừng ven sông Vàm Cỏ, tôi với Tư Xuân ngồi uống trà chuyện bao đồng, khoảng 10 giờ đêm, thì nghe tiếng Hai Hoàng kêu thất thanh : "Thảo ơi! Tư Xuân ơi! Chuột!".
Người ngoài nghe tiếng kêu ấy sẽ không hiểu gì cả. Nhưng tôi với Tư Xuân thì hiểu ngay. Hai Hoàng vừa đánh chết được mấy con chuột ăn gạo trong kho gạo cơ quan. Không phải Hai Hoàng quá tích cực bảo vệ kho gạo, mà đơn giản hơn, anh rình bẫy chuột, đánh chuột ăn gạo để mấy anh em chúng tôi ăn...chuột.
Mang mấy con chuột chiến lợi phẩm về nhà, Hai Hoàng nổi lửa. Tôi với Tư Xuân phụ vào. Chẳng mấy chốc, đám chuột được làm sạch sẽ và cho vào chảo mỡ. Rán. Thơm nức nở luôn. Tư Xuân đã chuẩn bị cơm nguội dành sẵn từ chiều, Hai Hoàng lôi ra một cút rượu đế, và chúng tôi... lai rai. Thú vị không thể tả. Bởi lúc ấy vừa đói bụng vừa buồn. Nhắm rượu với thịt chuột rán, kèm thêm bát cơm nguội, đời tự nhiên có ý nghĩa hẳn.
Mùa đông năm ấy thật lạnh.
Món ăn được chế biến từ thịt chuột khiến nhiều người thấy ấm lòng
Món thịt chuột rán đã khiến chúng tôi cảm thấy ấm áp trở lại. Khi đi chiến trường qua đồng Tháp Mười, tôi đã nhiều lần được ăn thịt chuột. Chuột ở Đồng Tháp mập mạp, tinh khiết, nướng trui ăn còn ngon hơn thịt gà. Những ngẫm lại, vẫn không bằng thịt chuột rừng ăn ở rừng. Vì nói tới ẩm thực, là phải nói tới không khí ẩm thực: ăn ở đâu, ăn với ai, vào lúc nào.
Thịt chuột rừng nướng cũng ngon, nhưng có lẽ với chúng tôi lúc đó, chuột rán là món ngon nhất. Đơn giản, vì rán là có mùi mỡ, có chất béo, những thứ mà chúng tôi rất thiếu hồi đó. Có đĩa chuột rán, bát cơm nguội, xị rượu đế, ba anh em cảm thấy rất ấm áp và đầy đủ. Ẩm thực bao giờ cũng gắn với cảm xúc. Khi những món ăn khiến anh thấy xúc cảm dâng trào, thì chắc chắn những món ấy rất ngon. Chứ sơn hào hải vị mà ăn không đúng lúc, ngồi không đúng người, thì vẫn rất chán.
Ngày ở miền Bắc, lúc học đại học sơ tán mãi tận rừng núi Đại Từ, Thái Nguyên, tôi cũng đã có vài lần ăn thịt chuột. Cũng là thịt chuột rừng pha chuột đồng, vì nơi chúng tôi ở vừa có núi vừa có thung lũng cấy lúa. Nhưng đúng là hồi ấy, ăn như thế chỉ vì đói, chưa thể gọi là ẩm thực. Chỉ khi ở chiến khu Tây Ninh, bên sông Vàm Cỏ Đông, tôi mới thực sự cảm thấy những bữa tiệc thịt chuột rán trong rừng mang hương vị của ẩm thực cao cấp.
Có thể ăn thịt chuột rán với đọt lá bứa
Bây giờ trong nghệ thuật ẩm thực, những tiêu chuẩn "độc", "lạ" luôn được đặt lên hàng đầu. Người ta bỏ nhiều tiền săn tìm những món ăn ấy, để thưởng thức, và khoe lên facebook. Nghĩ lại, thời chúng tôi ở rừng, có bao nhiêu là món ăn vừa độc vừa lạ, được chế biến hết sức tự nhiên, và được ăn kèm với các loại rau rừng cũng hoàn toàn thiên nhiên nhưng rất phù hợp.
Có thể ăn thịt chuột rán với đọt lá bứa, một loại lá có vị chát và thơm. Hay ăn với đọt trâm sắng, chua chua chát chát: "Trâm sắng mà chấm với tương/Có ăn mới thấm chiến trường miền Đông/", nghe hơi cực khổ, nhưng trâm sắng ăn kèm với thịt chuột rán, thì đậm đà vô cùng.
Nếu ai đó nghĩ hồi chiến tranh Việt Cộng đụng gì ăn nấy là rất nhầm. Trong chúng tôi có những tay đầu bếp nghiệp dư nhưng rất cừ khôi, và nhiều sáng tạo. Như nhà văn Trang Thế Hy. Như vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và nữ nhà thơ Lê Giang. Khi họ cầm trên tay bất cứ nguyên liệu nào có thể chế biến thành món ăn, họ đều suy nghĩ và tìm được những phương án tối ưu nhất. Họ đúng là những tay đầu bếp quí tộc, vì cách họ cư xử với nguyên liệu ẩm thực là rất "noble", rất quí phái. Từ những nguyên liệu tối giản họ có thể tạo nên những món ăn hay món nhậu cực bắt... rượu. Tôi luôn ngưỡng mộ những người sáng tạo ẩm thực, nhưng sáng tạo trong điều kiện cực kỳ thiếu thốn thì đó mới là điều đáng kể.
So với các bậc đầu bếp "noble" trong rừng thì tôi với anh Hai Hoàng hay Tư Xuân chỉ là đầu bếp ẩm thực bình dân. Nhưng trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi cũng cố gắng nghĩ ra cách nấu những món ăn sao cho ngon từ những nguyên liệu tối giản. Và phải chăng, nghệ thuật ẩm thực thời chiến tranh là nghệ thuật của sự tối giản, từ những nguyên liệu tối giản.
Trong thơ, cũng đã có một trường phái thơ tối giản, với những bậc thầy sáng chói của trường phái thơ này như nhà thơ Hy Lạp Yannis Ritsos, nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazime Hikmet, nhà thơ Việt Nam Văn Cao...
Và với những tài năng thơ lớn, thì đó là một trường phái rất riêng, đầy cá tính. Khi cất công tìm hiểu, ta sẽ thấy, hầu hết những nhà thơ ấy đều sáng tác trong những môi trường sống tối giản. Và ngôn ngữ họ dùng trong thơ cũng là ngôn ngữ tối giản, được tiết kiệm tối đa. Ẩm thực trong thời chiến cũng vậy. Và món thịt chuột rán bình dân của chúng tôi, là thuộc hẳn về trường phái ẩm thực tối giản đó.
Theo Thanhnien
Bánh xèo miền Tây 30 năm nức tiếng khiến người Sài Gòn 'giải sầu' chiều mưa Quán bánh xèo, bánh khọt chuẩn vị miền Tây tại hẻm nhỏ 335, đường Điện Biên Phủ, Quận 3, TP.HCM nhiều năm nay thu hút nhiều thực khách. Bánh xèo miền Tây có kích cỡ lớn, nhiều nhân tôm, thịt, mực, đậu xanh, có vị nước cốt dừa để thêm béo Dù trải qua hai thế hệ, món bánh xèo tại quán vẫn...