Tìm lời giải cho hàng loạt câu hỏi về các biến thể phụ của virus SARS-CoV-2
Theo bài viết trên trang mạng Theconversation.com ngày 5/5, kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, virus SARS-CoV-2 gây bệnh đã tiến hóa không ngừng với rất nhiều đột biến mới, trong đó có biến thể Omicron.
Biến thể đáng quan ngại này đã làm thay đổi diễn biến dịch bệnh, khiến số ca mắc mới trên toàn thế giới tăng mạnh.
Hình ảnh do Cơ quan dược phẩm và thực phẩm Mỹ cung cấp về virus SARS-CoV-2 gây dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN
Đáng chú ý, đã có thêm rất nhiều dòng phụ của Omicron xuất hiện, chẳng hạn như BA.2, BA.4 và mới nhất là BA.5. Hàng loạt câu hỏi đặt ra hiện nay đó là liệu con người có nguy cơ tái nhiễm các biến thể phụ này hay không và liệu có khả năng số ca mắc COVID-19 có tăng cao trở lại.
Tất cả các loại virus, trong đó có SARS-CoV-2, đều biến đổi liên tục. Đa phần các đột biến có rất ít hoặc không ảnh hưởng tới khả năng lây truyền virus từ người này sang người khác hoặc khả năng gây bệnh nặng. Khi một virus “tích lũy” được số lượng đáng kể các đột biến để có thể tăng khả năng lây lan và/hoặc gây triệu chứng bệnh nặng, virus đó sẽ được coi là một dòng khác (giống như một nhánh cây mới trên một thân cây). Đây là trường hợp đối với dòng BA (B.1.1.529) được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) gọi tên là Omicron. Biến thể này lây lan nhanh, chiếm hầu hết trong số các ca mắc COVID-19 hiện nay đã được giải trình tự gene trên toàn cầu. Do tốc độ lây nhiễm như vậy nên Omicron có nhiều cơ hội để đột biến và đã xuất hiện hàng loạt dòng phụ hoặc biến thể phụ của biến thể này như BA.1, BA.1.1, BA.2, BA.3, BA.4 và BA.5.
Trước Omicron, cũng đã có một số biến thể của virus SARS-CoV-2 như Delta. Tuy nhiên, Omicron đã “soán ngôi” Delta, nhiều khả năng do tốc độ lây lan mạnh của biến thể này. Vì vậy, các biến thể phụ của các biến thể trước đó hiện ít phổ biến hơn và việc theo dõi chúng cũng ít được chú trọng hơn.
Video đang HOT
Có nhiều bằng chứng cho thấy các dòng phụ của biến thể Omicron, cụ thể là BA.4 và BA.5, có thể khiến những người từng mắc các dòng BA.1 hoặc những dòng khác tái nhiễm. Cũng có quan ngại rằng những biến thể phụ này có khả năng lây lan ở những người đã tiêm phòng vaccine ngừa COVID-19. Vì vậy, không loại trừ khả năng số ca mắc mới COVID-19 sẽ tăng mạnh trong những tuần tới và những tháng tới do tình trạng tái nhiễm – một thực tế đang được ghi nhận tại Nam Phi.
Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy mũi tăng cường vaccine ngừa COVID-19 (mũi thứ 3) là cách hiệu quả nhất giúp làm chậm đà lây lan Omicron (kể cả các dòng phụ của biến thể này) và hạn chế các trường hợp nặng phải nhập viện.
Gần đây, biến thể phụ BA.2.12.1 cũng thu hút sự chú ý do lây lan nhanh tại Mỹ và tuần qua đã được phát hiện trong nước thải ở Australia. Đáng báo động, dù từng nhiễm biến thể phụ BA.1 của Omicron, một người vẫn có thể tái nhiễm các biến thể phụ khác gồm BA.2, BA.4 và BA.5 do khả năng lẩn trốn hệ miễn dịch của chúng.
Nghiên cứu của các nhà khoa học chỉ ra rằng virus SARS-CoV-2 đang có những “pha chạy nước rút đột biến” chỉ trong một thời gian ngắn. Ở một trong số những pha chạy nước rút đó, virus có thể biến đổi nhanh hơn 4 lần so với bình thường chỉ trong khoảng một vài tuần. Sau những “pha bứt tốc” như vậy, virus lại có thêm nhiều đột biến mà một vài đột biến trong đó thậm chí có thể có những điểm vượt trội hơn so với những dòng phụ khác, chẳng hạn như khả năng lây nhiễm nhanh hơn, gây nguy cơ bệnh nặng hơn hoặc có thể “né” hệ miễn dịch. Do vậy, lại có thêm nhiều biến thể mới xuất hiện.
Cho đến nay, giới khoa học vẫn đang đi tìm nguyên nhân khiến virus có những “pha chạy nước rút đột biến”. Trong khi đó, có hai giả thiết chính về nguồn gốc của Omicron và cách thức biến thể này “tích lũy” nhiều đột biến đến vậy. Thứ nhất, Omicron có thể đã phát triển trong các bệnh truyền nhiễm mãn tính ở những người có hệ miễn dịch suy yếu. Thứ hai, virus này có thể đã lây sang các loài khác, trước khi lây nhiễm trở lại cho con người.
Đột biến không phải là cách duy nhất để sản sinh ra các biến thể mới mà còn có hiện tượng tái tổ hợp. Đơn cử như biến thể XE của Omicron là kết quả của quá trình này. Hiện tượng tái tổ hợp xảy ra khi một bệnh nhân nhiễm cùng lúc biến thể BA.1 và BA.2. Quá trình đồng nhiễm này dẫn đến việc hoán đổi bộ gene và một biến thể lai.
Một dẫn chứng khác đã được ghi nhận về biến thể tái tổ hợp đó là Deltacron, biến thể lai giữa Delta và Omicron. Cho đến nay, các biến thể dạng này dường như không có khả năng lây nhiễm cao hoặc nguy cơ gây bệnh nặng. Tuy nhiên, không loại trừ sẽ có những thay đổi nhanh chóng về độc lực hoặc tốc độ lây lan nếu xuất hiện các biến thể tái tổ hợp mới. Vì vậy, các nhà khoa học vẫn đang theo dõi chặt chẽ các biến thể này.
Các nhà khoa học sẽ tiếp tục theo dõi các biến thể mới và các hiện tượng tái tổ hợp (đặc biệt với những biến thể phụ). Họ cũng sẽ sử dụng các công nghệ gene để dự đoán sự biến đổi của virus, các mô hình dịch bệnh tiềm tàng và các tác động liên quan. Việc lường trước các kịch bản như vậy sẽ giúp thế giới có thể hạn chế nguy cơ lây lan và tác động của các biến thể. Bên cạnh đó, điều này cũng sẽ tạo thuận lợi cho việc phát triển các loại vaccine giúp phòng ngừa hiệu quả nhiều loại biến thể hoặc vaccine đặc hiệu phòng ngừa biến thể nhất định nào đó.
Chuyên gia Ấn Độ: Chưa thể coi COVID-19 là bệnh đặc hữu
Trong bài viết đăng ngày 24/3 trên báo điện tử Financial Express của Ấn Độ, người đứng đầu Hiệp hội Y tế công cộng Ấn Độ (PHFI) K Srinath Reddy cho rằng vẫn chưa thể coi COVID-19 là bệnh đặc hữu khi mà virus SARS-CoV-2 vẫn chưa đạt hình thái phát triển đủ ổn định để có thể dự đoán về khả năng lây nhiễm.
Nhân viên y tế lấy mẫu xét nghiệm COVID-19 cho người dân tại một khu chợ ở Mumbai, Ấn Độ. Ảnh tư liệu: THX/TTXVN
Ông Reddy cho biết, năm 2020 có không ít ý kiến cho rằng vaccine có thể ngăn chặn virus SARS-CoV-2 và virus này sẽ biến mất vào năm 2021. Tuy nhiên, diễn biến dịch COVID-19 trên thế giới hiện nay cho thấy Omicron đang là biến thể chủ đạo, trong khi sự xuất hiện biến thể Deltacron lai giữa Delta và Omicron đang gây quan ngại.
Số ca mắc mới COVID-19 ở Tây Âu và Đông Á đang gia tăng, Trung Quốc đã phải phong tỏa tỉnh Cát Lâm và thành phố Thâm Quyến nhằm hạn chế sự lây lan của đại dịch COVID-19. Hàn Quốc cũng đang phải áp dụng các biện pháp phong tỏa và thực hiện nghiêm các quy định chống dịch. Tại Ấn Độ, Bộ Y tế nước này gần đây đã cảnh báo các bang cần tiếp tục thận trọng sau khi nới lỏng các biện pháp hạn chế.
Theo tác giả bài viết, virus SARS-CoV-2 sẽ vẫn tồn tại, song COVID-19 đã trở thành một bệnh "đặc hữu" hay chưa thì cần thời gian để trả lời. Ông lấy trường hợp của Ấn Độ làm dẫn chứng. Một nhà khoa học hàng đầu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vào tháng 8/2021 đã nhận định Ấn Độ có thể đang bước vào giai đoạn COVID-19 trở thành bệnh đặc hữu. Tuy nhiên, sự bùng phát làn sóng lây nhiễm Omicron sau đó đã cho thấy rằng giai đoạn đó vẫn chưa đến.
Từ điển định nghĩa tác nhân truyền nhiễm đặc hữu "tồn tại lâu dài trong một khu dân cư hoặc khu vực, với tỷ lệ xuất hiện tương đối ổn định". Điều này có nghĩa là virus có tính ổn định và có thể dự đoán được về khả năng lây nhiễm. Virus có thể đột biến định kỳ hoặc lây nhiễm quanh năm nhưng sẽ không có sự bùng phát bất ngờ.
Các bệnh đặc hữu có thể phân bố theo khu vực và thậm chí gây ra các bệnh nghiêm trọng và t.ử von.g (như bệnh lao và sốt rét ở châu Phi và châu Á hoặc bệnh chagas ở châu Mỹ Latinh).
Theo tác giả, ngày 16/3 vừa qua, Bộ Y tế Israel thông báo về sự xuất hiện của một biến thể mới là sự kết hợp giữa biến thể Omicron gốc (BA.1) và dòng phụ BA.2. Điều này cho thấy virus SARS-CoV-2 vẫn đang biến đổi và lây lan, tuy nhiên tỷ lệ mắc bệnh nặng không cao. Virus SARS-CoV-2 hiện chưa thể được coi như các virus cảm cúm thông thường nhưng trong tương lai có thể được đưa vào danh sách này.
Các nghiên cứu về Omicron đã chỉ ra rằng biến thể này xâm nhập phần lớn vào mũi và cổ họng nhưng hầu như không thể xâm nhập vào phổi. Các dữ liệu lâm sàng của các bệnh nhân nhiễm biến thể Omicron cũng cho thấy các triệu chứng sổ mũi (hơn 80%), khó thở và viêm phổi xuất hiện nhiều hơn so với các biến thể trước đó. Điều này cho thấy SARS-CoV-2 đang phát triển để sống chung ổn định nhưng ít gây nguy hiểm hơn nhiều cho con người.
Theo ông Reddy, đây là một sự tiến hóa của virus SARS-CoV-2. Virus chuyển sang dạng tương đối ổn định với khả năng lây nhiễm cao và độc lực từ thấp đến trung bình, sẽ phù hợp với logic sinh tồn của sinh học tiến hóa. Trong số các biến thể mà virus tạo ra, những đột biến giúp virus lây lan nhanh hơn sẽ được giữ lại.
Ông cho biết hươu và chồn cũng có thể bị nhiễm bệnh nhưng chúng sẽ không trở thành vật chủ gây lây nhiễm giống như con người. Tuy nhiên, ở động vật, có một nguy cơ là virus có thể trải qua "sự thay đổi kháng nguyên" vì loài này cũng mang một loại virus khác, cho phép xảy ra tình huống hoán đổi một số vật liệu di truyền giữa hai virus. Đột biến kháng nguyên như vậy có thể xảy ra ở một người bị suy giảm miễn dịch.
Tác giả bài viết kết luận dường như virus SARS-CoV-2 vẫn đang tìm ra con đường tiến hóa riêng của mình, do đó COVID-19 vẫn chưa thể được coi là bệnh đặc hữu và vì vậy thế giới vẫn cần rất thận trọng.
Người tiêm vaccine bị nhiễm Omicron phục hồi nhanh hơn 3 ngày so với Delta Những người đã tiêm 3 mũi vaccine ngừa COVID-19 sẽ khỏi các triệu chứng do nhiễm biến thể Omicron sớm hơn 3 ngày so với những người nhiễm biến thể Delta. Hình minh họa biến thể Omicron và các mũi tiêm vaccine. Ảnh: AFP Theo hãng tin AFP, đây là kết quả từ một nghiên cứu của ứng dụng trên điện thoại có...