Tìm giải pháp giảm thiểu thiên tai cho nhân dân vùng hạ du
Đó là vấn đề được đưa ra bàn luận tại hội thảo “Vận hành hợp lý liên hồ chứa, giảm lũ cho hạ du – trách nhiệm và thách thức” do Ban chỉ đạo PCLB Trung ương, UBND tỉnh Bình Định tổ chức sáng 31/10.
Hội thảo tìm giải pháp tối ưu nhằm giảm thiểu thiên tai cho nhân dân vùng hạ du
Tham gia hội thảo có đại diện lãnh đạo UBND, thường trực Ban chỉ huy phòng chống lụt bão của 10 tỉnh, TP khu vực Miền Trung- Tây Nguyên (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Đà Nẵng, TT-Huế), đại diện Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT, cùng các cơ quan trung ương và địa phương liên quan. Ngoài ra, còn có sự tham gia ý kiến của các chủ hồ thuỷ điện trên một số lưu lực sông lớn như Vu Gia-Thu Bồn, sông Kôn-Hà Thanh, Sê San, Sêrêpôk, sông Ba…
Bà Trần Thị Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định cho rằng việc ban hành Quyết định của Thủ tướng còn gặp nhiều khó khăn cần khắc phục
Tại hội thảo có hơn 10 tham luận chính và nhiều ý kiến thảo luận thiết thực từ UBND các tỉnh, các chủ hồ chứa nước thủy điện, các cơ quan liên quan đến công tác vận hành liên hồ chứa và phòng chống lụt bão, góp phần giảm nhẹ thiên tai cho vùng hạ du.
Trận lũ lớn bất ngờ xảy ra cuối năm 2013 tại Bình Định mà người dân cho rằng là do xả lũ
Bà Trần Thị Thu Hà, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định cho rằng, việc triển khai vận hành theo Quyết định của Thủ tướng đã ban hành đối với địa phương là việc làm rất khó khăn. Tuy nhiên, chúng tôi đã triển khai ngay, mời tất cả các thành phần liên quan để vận hành thử mà vẫn còn nhiều khó khăn. Năng lực rất ít, dự báo còn hạn chế, trạm đo mưa xa…
Trong khi đó, ông Nguyễn Sự – Bí thư thành ủy Hội An (Quảng Nam) thẳng thắn bày tỏ: “Việc xã lũ trước đây được cho là đúng quy trình, nhưng quy trình đó có đúng không, đó mới là điều quan trọng. Trước khi có thủy điện cũng có lụt, nhưng đó là lụt chứ không phải lũ. Lụt lớn từ từ, còn có thời gian mà chuẩn bị. Giờ lũ bất thường, lên nhanh người dân chạy không kịp… Việc vận hành, chủ tịch tỉnh có đủ dũng cảm nhận trách nhiệm không hay khi xảy sự cố rồi đổ qua đổ lại. Tôi nghĩ hội thảo lần này sẽ còn nhiều thứ phải bàn”.
Video đang HOT
Ông Nguyễn Sự – Bí thư thành ủy Hội An (Quảng Nam) thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình đã được sự đồng tình của các đại biểu
Trao đổi về một số vấn đề vận hành liên hồ chứa thời kỳ mùa lũ theo các quy trình đã ban hành, GS TS Hà Văn Khối – Đại học Thủy lợi Hà Nội, cho rằng, trong quy trình chỉ quy định khi mực nước tại nút phòng lũ vượt mực nước khống chế cho phép xả lưu lượng nhỏ hơn lưu lượng đến hồ để cắt giảm lũ hạ du. Phương thức cắt lũ như thế nào cần phải lựa chọn sao cho hiệu quả nhất, hạn chế các rủi ro đảm bảo an toàn cho công trình.
GS Khối cũng lưu ý: Nếu cắt lũ quá sớm và giảm quá thấp mực nước hạ du ở khoảng thời gian đầu của lũ, nếu gặp lũ không quá lớn thì hiệu quả cắt lũ cao. Nhưng nếu gặp trận lũ lớn, nếu dung tích phòng lũ đã được sử dụng hết thì phần lũ cao không cắt được nữa nên hiệu quả cắt lũ rất thấp. Do vậy, cần phải cân nhắc phương án cắt lũ cho từng trận lũ và rất phụ thuộc vào kết quả dự báo lũ đến hồ và các phụ lưu.
Trong quá trình giảm lưu lượng xả lũ xuống hạ du, trước khi mực nước đạt mực nước dâng bình thường, nếu lũ dự báo tiếp tục lên có khả năng vượt mức dâng bình thường thì phải tăng dần lưu lượng xả lũ để không gây “sốc” cho hạ du do lưu lượng xả tăng đột ngột. Điều này cũng rất phụ thuộc vào kết quả dự báo lũ đến hồ chứa và hạ lưu hồ. Trong các Quy trình vận hành không có quy định cụ thể về “xả lũ an toàn cho hạ du”, tức là điều tiết xả lũ sao cho không gây sự thay đổi đột biến lưu lượng xuống hạ du. Vấn đề này Quy trình giao cho địa phương tự quyết định.
GS TS Hà Văn Khối – Đại học Thủy lợi Hà Nội, phát biểu tham luận tại hội thảo
Theo ông Nguyễn Văn Vỹ, Phó giám đốc Trung tâm PCLB khu vực miền Trung và Tây Nguyên – Cục Quản lý đê điều và PCLB cho rằng: Quá trình thực hiện các quy trình vận hành hồ, ngoài những mặt tích cực, các quy trình đã bộc lộ nhiều bất cập trong điều hành, vận hành giảm lũ cho hạ du, chưa đảm bảo hài hòa giữa yêu cầu phát điện và phục vụ các yêu cầu sử dụng nước ở hạ lưu cũng như duy trì dòng chảy sinh thái.
Ông Vỹ nhấn mạnh: Về nguyên tắc vận hành hồ chứa phải bảo đảm không gây lũ nhân tạo đột ngột, bất thường đ.e dọ.a trực tiếp đến tính mạng và tài sản của nhân dân khu vực ven sông ở dưới hạ du hồ chứa là yêu cầu xuyên suốt trong việc vận hành các hồ.
Doãn Công
Theo Dantri
Đại biểu yêu cầu tìm nguyên nhân năng suất lao động Việt quá thấp
Nhiều đại biểu cho rằng Chính phủ cần mổ xẻ vì sao năng suất lao động của Việt Nam đứng cuối bảng trong khu vực, từ đó tìm giải pháp để có được năng suất cao nhất.
Một nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) gần đây cho thấy, năng suất lao động của người Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất châu Á - Thái Bình Dương; thấp hơn Singapore gần 15 lần, Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. Ngay cả so với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập trung bình, đó vẫn là một khoảng cách lớn.
Nhắc lại thông tin này tại buổi thảo luận tổ ngày 21/10, đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm cho rằng "cần giải mã điều này, để năng suất như thế không ổn". Chính phủ cần giải trình vì sao năng suất lao động lại thấp và tăng chậm. "Các nước tiến lên còn mình thụt lại. Đây là dẫn chứng cho thấy giữa báo cáo và thực tiễn là khoảng cách lớn. Các báo cáo chỉ nêu &'năng suất lao động thấp và có xu hướng tăng chậm' mà không có sự so sánh, lý giải", đại biểu Tâm nhấn mạnh.
Đề cập việc Việt Nam đứng ở cuối bảng về năng suất lao động, đại biểu Lê Minh Thông cho rằng, Chính phủ phải tìm rõ vì sao năng suất lao động lại thấp. Đầu tư, tái cơ cấu nền kinh tế mà năng suất lao động không có thì lãng phí. "Đã đến lúc chúng ta nhìn nhận năng suất lao động một cách nghiêm túc là yếu ở khâu nào, từ đó tìm ra cách tổ chức sản xuất như thế nào để có thể cải thiện. Không phân tích, mổ xẻ kỹ thì khó tìm giải pháp thực tế", đại biểu Minh Thông nói.
Đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân. Ảnh: N.Phương.
Thừa nhận thực trạng năng suất lao động của người Việt thấp, tuy nhiên đại biểu Trần Hoàng Ngân, chuyên gia về kinh tế, lại có cái nhìn khá lạc quan. Trao đổi bên hành lang Quốc hội, ngày 22/10, ông Ngân chia sẻ: "Năng suất lao động của mình thấp hơn các nước cũng đừng lấy làm bức xúc vì đó là tính bình quân. Có người làm nhiều, có người làm ít, còn người Việt Nam mình rất trí tuệ".
Lý giải cho quan điểm của mình, đại biểu này cho biết, năng suất lao động được tính bằng cách lấy GDP chia cho lực lượng lao động. GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 1.191 đôla, trong khi Phillippines vào khoảng 2.500, Indonesia 3.600, Thái Lan khoảng 5.800...
Lực lượng lao động của Việt Nam là 54 triệu người, một nửa là lao động nông nghiệp, số có ký hợp đồng chính thức rất thấp. Với lao động nông nghiệp, một người có khi một ngày làm một giờ, gặp mùa mưa không đi làm, có khi nghỉ chơi Tết cả tháng. Vì thế nói năng suất lao động của người Việt rất khó.
"Nếu đi thi, sẽ thấy chúng ta được huy chương vàng, năng suất lao động rất tốt, nhưng tính bình quân thì lại rất thấp, tức là thống kê có vấn đề. Có người không lao động, nội trợ nhưng vẫn thống kê là lao động, lao động một giờ vẫn thống kê là lao động cả một ngày. Lao động phi chính thức ở nước ta rất nhiều, do đó chỉ số thất nghiệp rất thấp vì ai cũng lao động", đại biểu Hoàng Ngân phân tích.
Đại biểu Bùi Sỹ Lợi: "Tăng lương để tăng năng suất lao động". Ảnh:Thanh Thanh.
Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội, kiến nghị cần tăng lương để tăng năng suất. Trong tình hình năng suất lao động thấp như hiện nay thì Chính phủ cần ưu tiên chi cho tăng lương.
"Đây không chỉ là mong muốn của riêng tôi mà của nhiều đại biểu. Tái cơ cấu nền kinh tế mà không tái cơ cấu nhân lực, không bù đắp đủ chi phí cho con người, không làm cho con người có đời sống bảo đảm để tái sản xuất sức lao động thì không có điều kiện tăng năng suất", Phó chủ nhiệm Lợi nhấn mạnh.
Chia sẻ với VnExpress trước đó, bà Nguyễn Thị Lan Hương, Viện trưởng Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chỉ ra 4 nguyên nhân của thực trạng năng suất lao động thấp. Thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp của Việt Nam chưa đến 20% trong khi của Singapore là gần 80%.
Thứ hai, công nghệ chủ yếu ở trình độ thấp, công nghệ cơ khí và sử dụng nhiều lao động. Lấy ví dụ cùng sản xuất một mặt hàng nhưng nhà máy của Trung Quốc sản xuất trên dây chuyền cơ giới hóa, tự động hóa thì chỉ cần ít lao động.
Thứ ba, trình độ quản lý lao động của Việt Nam kém. Người ở vị trí quản lý không có đủ kỹ năng nhận biết người này giỏi hơn thì thu nhập cao hơn mà tất cả mọi người đều cào bằng ở mức thu nhập như nhau. Như vậy thì người lao động không có động lực làm việc.
"Nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất ngạc nhiên là tại sao sau bao nhiêu năm một người được tuyển về năng suất lao động không tăng. Ví dụ vừa vào họ may được 20 sản phẩm thì 3 năm sau họ vẫn chỉ may được bằng đấy sản phẩm, không tăng", bà Hương nói.
Nguyên nhân thứ tư là sự luân chuyển lao động rất cao. Có thời điểm một nhà máy một ngày phải tuyển tới 500 người, cứ tuyển vào, đào tạo rồi công nhân lại đi, lại tuyển mới vào. Như thế, năng suất lao động không thể cao được.
Ông Cao Quang Đại, Vụ trưởng Kỹ năng nghề, Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) cho rằng, ngoài tiến bộ công nghệ, khoa học kỹ thuật thì thể trạng, sức khỏe, độ bền của người lao động cũng ảnh hưởng đến năng suất.
Ông Đại dẫn chứng trong cuộc thi tay nghề khu vực ASEAN, xét về chuyên môn, Việt Nam bao giờ cũng đứng trong top 3, nhưng độ kéo dài, sức bền, làm việc cường độ lớn lại kém. Thiếu kỹ năng mềm cũng là điểm yếu lớn nhất của lao động Việt Nam. Giao tiếp không thành thục, truyền đạt thông tin kém, tuân thủ quy trình lao động không tốt, ngoại ngữ kém... đều dẫn đến giảm năng suất.
Quốc hội dự kiến sẽ thông qua Luật Dạy nghề sửa đổi trong kỳ họp này. Dự thảo luật nhấn mạnh sự tham gia của doanh nghiệp vào quá trình đào tạo lao động thông qua các chương trình ưu đãi thuế.
Theo thống kê của ILO, tốc độ tăng của năng suất lao động giảm đi tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2002-2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi năm - mức cao nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%.
Nam Phương
Theo VNE
Lãnh đạo TP HCM truy nguyên nhân ngập "Làm việc tắc trách như thế này là có lỗi với dân lắm các đồng chí ơi", Phó Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Hữu Tín nói khi truy vấn các sở, ngành nguyên nhân xuất hiện nhiều điểm tái ngập mà không đơn vị nào trả lời được. Cuộc họp bàn về giải pháp chống ngập cấp bách trên địa bàn giữa...