Tiêm kích chạy bằng than đá độc nhất của phát xít Đức
Tiêm kích P13A sử dụng động cơ phản lực chạy bằng than để đối phó với tình trạng khan hiếm nhiên liệu của Đức Quốc xã.
Mô hình P13A trong quá trình thử nghiệm. Ảnh: Luft 46 Models.
Cuối Thế chiến II, phát xít Đức muốn chế tạo một loại chiến đấu cơ tốc độ cao, trang bị hỏa lực mạnh với chi phí thấp để chống lại oanh tạc cơ Đồng minh. Một trong những thách thức mà họ phải đối mặt là tình trạng khan hiếm xăng dầu cho máy bay, theo Vintage News.
Để khắc phục tình trạng này, cuối năm 1944, tiến sĩ Alexander Lippisch đề xuất ý tưởng chế tạo tiêm kích đán.h chặn P13A chạy bằng than đá. Theo đó, một giỏ lưới chất đầy than đá sẽ được gắn sau cửa hút gió và đốt cháy bằng khí gas, tạo lực đẩy cho tiêm kích.
P13A là dự án máy bay tối mật của Đức. Nó sử dụng thiết kế cánh hình tam giác và động cơ phản lực dòng thẳng (ramjet). P13A chỉ có phiên bản một chỗ ngồi, có thể đạt tốc độ tối đa 1.650 km/h, tầm hoạt động 1.000 km nhờ trang bị một động cơ ramjet Kronach Lorin chạy bằng than đá.
Theo thiết kế của Lippisch, than đá được nghiền thành hạt nhỏ để có thể đốt cháy đều, được đựng trong giỏ lưới hình tròn có thể quay quanh một trục thẳng đứng. Động cơ phản lực sẽ thổi lửa vào giỏ lưới ngay khi P13A đạt tốc độ hành trình.
Video đang HOT
Tuy nhiên, việc sử dụng động cơ ramjet khiến P13A phải dựa vào rocket sơ tốc hoặc máy bay khác kéo đi trước khi kích hoạt động cơ hành trình. Theo đề xuất, P13A có thể được làm từ vật liệu gỗ, gỗ dán và ống thép để giảm trọng lượng. Mẫu tiêm kích này được trang bị hai sún.g máy cỡ nòng 7,92 mm hoặc 13 mm.
Một số thử nghiệm trong đường hầm gió từng được Đức tiến hành, cho thấy P13A có thể hoạt động tốt ở tốc độ 3.675 km/h, gấp ba lần vận tốc âm thanh.
Tuy nhiên, Đức không kịp hoàn thiện dự án này trước khi chiến tranh kết thúc. Trên thực tế, chỉ có mẫu tàu lượn thử nghiệm DM-1 được chế tạo và bị quân đội Mỹ tịch thu. Mỹ yêu cầu nhóm của tiến sĩ Lippisch hoàn tất tàu lượn này trước khi đưa về nước thử nghiệm với kết quả rất khả quan.
Sau chiến tranh, tiến sĩ Lippisch hợp tác với đội ngũ thiết kế của Convair để sản xuất nguyên mẫu XF-92, từ đó phát triển thành tiêm kích đán.h chặn F-102 Delta Dagger và F-106 Delta Dart. Kết quả thử nghiệm DM-1 sau đó được ứng dụng vào nghiên cứu máy bay của NASA trong thập niên 1950.
Duy Sơn
Theo VNE
Tiêm kích nhanh nhưng không nguy hiểm của phát xít Đức
Tiêm kích Me-163 trang bị động cơ phản lực lao đi quá nhanh khiến phi công rất khó ngắm bắ.n oanh tạc cơ bay chậm của phe Đồng minh.
Một chiếc tiêm kích phản lực Me-163 của phát xít Đức. Ảnh: AAS
Những năm cuối Thế chiến II, với hy vọng xoay chuyển cục diện chiến trường, phát xít Đức chế tạo ra một loạt vũ khí mới, trong đó có Messerschmitt Me-163 Komet, chiếc tiêm kích đán.h chặn động cơ phản lực không có cánh đuôi đầu tiên và duy nhất được biên chế trên thế giới, theo Air And Space.
Áp dụng công nghệ tên lửa đẩy của tiến sĩ Alexander Lippisch, công ty Messerschmitt chế tạo nguyên mẫu Me-163 đầu tiên vào năm 1941. Các cuộc thử nghiệm cho thấy tiêm kích Me-163 bay siêu nhanh, đạt vận tốc gần 1000 km/h.
Đến tháng 8/1943, Đức thành lập một đơn vị thử nghiệm có tên gọi Ekdo 16 gồm 4 phi công để vận hành những chiếc tiêm kích phiên bản Me-163B. Đây là loại tiêm kích một người lái, sải cánh hơn 9 m, dài gần 6 m, trang bị động cơ phản lực Walter HWK 109-509A, trọng tải cất cánh 4310 kg, tốc độ tối đa 955 km/h. Vũ khí chính của tiêm kích này là hai pháo Mk 108 30 mm dùng để đán.h chặn.
Tuy nhiên, tiêm kích này lại gặp phải một số trục trặc như hai động cơ phản lực không ổn định và dễ bị ăn mòn trong quá trình đốt nhiên liệu. Nhiên liệu sử dụng cho động cơ phản lực có tính ăn mòn cao và rất dễ phát nổ, khiến Đức mất một số máy bay trong giai đoạn thử nghiệm. Các phi công Đức phải mặc đồ bảo hộ bằng vật liệu chống ăn mòn bởi nhiên liệu động cơ có thể thấm vào khoang lái qua các mối hàn khung máy bay. Chiếc tiêm kích có lúc bỗng nhiên phát nổ khi đang đỗ trên mặt đất.
Tháng 7/1944, Đức quyết định sản xuất đại trà để xây dựng các phi đội tiêm kích Me-163B nhằm đán.h chặn oanh tạc cơ phe Đồng minh. Tổng cộng 279 chiếc Me-163 đã được bàn giao đến giai đoạn cuối chiến tranh.
Chiếc tiêm kích phản lực Me-163 được trưng bày trong viện bảo tàng ở Mỹ. Ảnh: AAS
Ngày 16/8/1944, phi đội Me-163 Komet lần đầu xuất kích đán.h chặn oanh tạc cơ phe Đồng minh nhưng không thành công. Dù được trang bị hai khẩu pháo Mk-108 đầy uy lực, đủ sức bắ.n hạ một oanh tạc cơ sau 4 phát đạn, phi công Me-163 gần như không thể ngắm được mục tiêu vì chiếc tiêm kích lao đi quá nhanh, trong khi tốc độ khai hỏa của pháo chậm và tầm bắ.n ngắn.
Dù có thể đạt trần bay hơn 12.000 m chỉ sau ba phút rưỡi, tiêm kích Me-163 chỉ đủ nhiên liệu bay trong 8 phút. Sau một đến hai lần tấ.n côn.g, các phi công phải lượn về căn cứ mà không có cách nào thoát được tiêm kích hộ tống của phe Đồng minh.
Đức sau đó lắp thêm các vũ khí phụ gồm pháo 50 mm khai hỏa theo phương thẳng đứng điều khiển bằng quang điện tử để có thể bắ.n vào mục tiêu mỗi khi tiêm kích Me-163 bay vụt qua oanh tạc cơ địch, nhưng pháo này không được sản xuất với số lượng lớn.
Tầm hoạt động ngắn, chỉ trong phạm vi 40 km, khiến Me-163 chỉ có thể đợi kẻ thù tấ.n côn.g thay vì xuất kích tìm diệt mục tiêu. Hậu quả là Đức Quốc xã mất tới 14 tiêm kích Me-163, trong khi chỉ bắ.n hạ được 9 oanh tạc cơ phe Đồng minh.
Cũng giống như các vũ khí khác được phát xít Đức đưa vào biên chế giai đoạn cuối Thế chiến II, Me-163 gần như không thể xoay chuyển cục diện chiến trường, tuy nhiên nó có thể được coi như một thành tựu công nghệ quan trọng trong lịch sử, các chuyên gia của trang AirAndSpace nhận định.
Duy Sơn
Theo VNE
Trận tập kích táo bạo của tàu ngầm Đức vào căn cứ Anh năm 1939 Một tàu ngầm Đức lợi dụng thủy triều áp sát căn cứ hải quân Anh, đán.h chìm thiết giáp hạm Royal Oak và gây hoang mang cho lực lượng này. Vụ tấ.n côn.g của U-47 được đán.h giá là táo bạo nhất Thế chiến II. Ảnh: Wikipedia. Ngày 14/10/1939, chỉ một tháng sau khi Thế chiến II bắt đầu, một tàu ngầm U-47...