Thủy điện Việt Nam đi “ngược chiều” thế giới – Kỳ 4: Chỉ phát điện, không phòng lũ
Việc phát triển hệ thống thủy điện của Việt Nam hiện nay có nhiều lỗ hổng. Nhiều công trình không có dung tích phòng lũ và không có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐGTĐMT) trên toàn hệ thống.
Một nghiên cứu chuyên đề về “Đánh giá tác động xả lũ của thủy điện Sông Ba Hạ đến hạ lưu sông Ba” của Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) cho biết: Thực tế thủy điện Sông Ba Hạ là công trình đơn mục tiêu, mặc dù trong nhiệm vụ có nêu đây là công trình tham gia xả lũ cho hạ lưu (Bộ Công thương 2009). Do không có dung tích phòng lũ nên khả năng hỗ trợ phòng lũ hạ lưu của công trình chủ yếu phụ thuộc vào chủ quan của người vận hành hồ chứa (Công ty CP thủy điện Sông Ba Hạ).
Thủy điện Sông Ba Hạ, một trong nhiều công trình thủy điện không có dung tích phòng lũ – Ảnh: Đức Huy
Trong trận lũ 11.2009, kết quả nghiên cứu cho thấy do thủy điện Sông Ba Hạ không có dung tích phòng lũ nên khi lũ lớn về đầy hồ chứa (phát điện) đã đe dọa đến chính bản thân công trình. Toàn bộ lượng lũ đều được xả qua công trình và một phần lượng nước trong hồ cũng phải xả để bảo đảm an toàn. Kết quả làm lũ đến hạ lưu tăng khoảng 10% so với lũ tự nhiên.
Dung tích phòng lũ là phần hồ chứa được để trống trước mùa lũ. Khi có lũ lớn, nước vượt giới hạn dung tích hồ chứa thì lượng nước trên sẽ được cho chảy vào phần hồ phòng lũ nhằm hạn chế tác hại của lũ.
Còn theo một báo cáo khác của Sở NN-PTNT Quảng Nam, quy hoạch tổng thể dự án 10 thủy điện bậc thang của hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn có tổng dung tích phòng lũ là 1,07 tỉ m3 nước. Tuy nhiên hầu hết các thủy điện này có dung tích phòng lũ rất nhỏ so với dung tích toàn bộ công trình. Cụ thể như tổng dung tích của 3 hồ thủy điện Sông Tranh 2, A Vương, Đắk Mi 4 khoảng 1,5 tỉ m3 nước. Nhưng thực tế dung tích phòng lũ của 3 hồ này chỉ đạt 125 triệu m3. Vì vậy mà các hồ chứa này không có chức năng phòng lũ.
Bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Sáng tạo xanh, cán bộ vận động chính sách của VRN nói: “Nhiều dự án thủy điện (DATĐ) khi xin cấp phép thì ghi trong hồ sơ, mục đích là phát điện và phòng lũ. Nhưng khi được cấp phép thì các nhà đầu tư (NĐT) đã làm lơ mục đích phòng lũ mà chỉ đơn thuần là phát điện. Đi thực tế các công trình thủy điện ở miền Trung chúng tôi đã thấy rất nhiều trường hợp như vậy. Đây là điều rất nguy hiểm vì người dân cứ nghĩ là các đập thủy điện này có khả năng phòng lũ. Nó tạo ra một tâm lý an toàn giả tạo cho người dân. Nên khi có lũ hay sự cố xảy ra thì vùng tổn thương sẽ càng lớn và thiệt hại sẽ cũng nặng nề hơn. Chính phủ có chỉ đạo các bộ xây dựng quy định về quy chế vận hành liên hồ chứa. Nhưng thực tế là các hồ không có dung tích để chứa thì làm sao nó có thể chứa được”.
Theo TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC), trong quy hoạch, thủy điện trung bình trở lên thì có phần dung tích phòng lũ. Nhưng để tiết kiệm đa phần các NĐT đều không đưa nó vào trong thiết kế, thi công.
Video đang HOT
Lỗ hổng
Theo TS Lê Anh Tuấn, Trường ĐH Cần Thơ, có nhiều lỗ hổng trong các báo cáo ĐGTĐMT của các đập thủy điện ở Việt Nam. Lỗ hổng lớn nhất là các báo cáo này không có đánh giá tác động tích lũy (Cumulative Impact Assessment – CIA) khi có ít nhất hai hoặc nhiều hơn công trình hay DA tác động lên một hệ sinh thái. Chỉ riêng trên dòng chính sông Đồng Nai, người ta có thể đếm được 14 công trình thủy điện cho một đoạn sông chừng 420 km. Mật độ thủy điện như vậy là khá dày đặc. Khi thực hiện ĐGTĐMT cho một DATĐ lên một hệ sinh thái, một nguồn tài nguyên thiên nhiên hay một thành tố xã hội phải xem xét trên và dưới DATĐ này còn có các công trình nào khác mà sự tác động của chúng khi cùng vận hành tạo ra các hiệu ứng “cộng hưởng” hay tạo ra một chuỗi tác động tiêu cực theo dạng “domino” cho môi trường lưu vực và dân sinh.
Theo ông Trịnh Lê Nguyên, bản thân việc ĐGTĐMT hiện nay vẫn mang tính chất hình thức. “Có thể thấy ví dụ điển hình ở những DA có sự quan tâm của dư luận chẳng hạn như Đồng Nai 6 và 6A… có quá nhiều vấn đề khi chúng ta nhìn sâu vào đó. Thế nhưng hầu hết các DA khác không được theo dõi và giám sát chặt chẽ như thế. Không một hệ thống tự nhiên nào có thể tự điều chỉnh, tái cân bằng khi bị băm nát, phá vỡ và phân mảnh dưới tác động của phát triển thủy điện như hiện nay. Sự phản hồi cực đoan của hệ sinh thái sẽ dẫn đến những hệ lụy xấu cho môi trường và con người như chúng ta đã thấy ở nhiều trường hợp. Các báo cáo đánh giá về thủy điện vẫn chủ yếu tập trung vào những mặt tích cực của thủy điện. Thế nhưng không thể nói phải ưu tiên an ninh năng lượng cao hơn an ninh lương thực, ổn định xã hội cũng như an ninh môi trường được”.
TS Đào Trọng Tứ nhận định: “Hiện nay với quy định NĐT phải lập ĐGTĐMT, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì theo tôi, ta sẽ rất khó có được một ĐGTĐMT theo đúng nghĩa để giúp nhà nước nhận định và ra những quyết định đúng đắn. Với quy trình này ai cũng thấy rằng, chẳng thể có công trình nào mà NĐT (cả tư nhân và nhà nước) lại bỏ ra rất nhiều tiền để chứng minh rằng công trình hay DA của mình không đáng đầu tư. Tôi kiến nghị nhà nước phải quản lý và điều hành hoạt động lập ĐGTĐMT, nhưng phải có quỹ cho công tác này từ đóng góp của các NĐT và nhà nước. Sự tham gia thực sự của cộng đồng chịu tác động và các bên liên quan phải là quy chế bắt buộc… Ngoài ra những tiêu chí, tiêu chuẩn cho cho ĐGTĐMT cần phải được điều chỉnh và bổ sung”.
“Việt Nam dường như đang thiếu một quy trình cho việc đánh giá tác động tích lũy bên cạnh các báo cáo ĐGTĐMT. Chính phủ Việt Nam đã từng khuyến cáo DATĐ Xayabury ở Lào phải được đánh giá trên cơ sở tổng thể tất cả các bậc thang thủy điện đến các vùng hạ lưu chứ không thể tách riêng ra từng DA để đánh giá. Không cớ gì mà chúng ta khuyến cáo cho phía nước ngoài mà bỏ qua các khuyến cáo như vậy cho các DATĐ trên một dòng sông trong nước”, TS Lê Anh Tuấn kết luận.
Theo TNO
Thủy điện Việt Nam đi "ngược chiều" thế giới - Kỳ 3: Không sạch mà cũng không rẻ
Thanh Niênđã phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập, người từng tham gia nhóm nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông, xung quanh những nghiên cứu về tác hại của thủy điện với môi trường.
Thủy điện không sạch
Thưa ông, thủy điện có phải là nguồn năng lượng sạch như trước nay người ta vẫn nghĩ?
Ông Nguyễn Hữu Thiện
Theo một nghiên cứu của Đại học Alberta (Canada), lượng phát thải khí nhà kính từ các hồ thủy điện đóng góp khoảng 7% nguồn khí nhà kính gây ra tình trạng nóng lên toàn cầu. Mạng lưới Nam Á về đập, sông ngòi và con người thì cho biết, tổng lượng phát thải của các đập lớn ở Ấn Độ là khoảng 45,8 triệu tấn khí methane (CH4) mỗi năm, chiếm khoảng 19% tổng lượng phát thải khí nhà kính của Ấn Độ. Ông Patrick McCully, Giám đốc Mạng lưới sông ngòi quốc tế (International Rivers Network), nói rằng: "Những người lập chính sách về khí hậu đã đánh giá thấp tầm quan trọng của methane phát thải từ đập. Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này".
Theo tờ Science Daily, ở Thụy Sĩ, một lượng lớn khí methane phát thải ra không chỉ từ các hồ chứa thủy điện lớn mà còn từ các hồ chứa của đập dâng (run-of-river dam), đặc biệt là vào mùa hè khi nhiệt độ nước cao lên. Lượng phát thải CH4 hằng ngày của hồ Wohlen, gần thành phố Bern, là 150 miligam/m2 mặt hồ. Khi nhiệt độ ấm lên đạt 170C thì sự phát thải tăng gấp đôi, tương đương với lượng phát thải ở các đập ở vùng nhiệt đới. Ngoài ra, các công trình thủy điện thường dẫn đến sự tàn phá rừng bằng nhiều cách bao gồm mất rừng tại nơi xây dựng đập, diện tích rừng bị dìm ngập trong lòng hồ, diện tích rừng bị phá để làm đường truyền dẫn điện, và khi các cộng đồng bị tái định cư, mất đất, mất sinh kế sẽ phải trở thành "lâm tặc bất đắc dĩ", phải phá thêm rừng để sinh sống. Những diện tích rừng bị mất này sẽ làm mất đi chức năng hấp thu và lưu trữ carbon.
Những điều này cho thấy thủy điện không hẳn là nguồn năng lượng sạch.
Xin ông cho biết cụ thể về việc các hồ thủy điện gây nguồn phát thải khí nhà kính như thế nào?
Các nghiên cứu gần đây cho thấy hồ chứa thủy điện ở thượng lưu đập và kể cả đoạn sông ngay phía hạ lưu đập có phát thải một lượng đáng kể khí CH4 và khí carbonic (CO2) vào khí quyển. Theo IPCC, CH4 là một loại khí nhà kính mạnh gấp 21 lần khí CO2 trong tiềm năng làm nóng lên toàn cầu, tính cho cùng giai đoạn 100 năm.
Khi hồ chứa bắt đầu tích nước, một lượng lớn vật liệu hữu cơ từ thực vật và đất bị dìm xuống đáy hồ, nhất là khi diện tích bị ngập là rừng. Sau đó vật liệu hữu cơ từ các nguồn khác nhau trong lưu vực như xác bã thực vật, dư lượng phân bón nông nghiệp trong lưu vực, chất thải chăn nuôi sẽ tiếp tục theo các nhánh sông dẫn đến hồ chứa và bị giữ lại trong hồ. Ngoài ra, hằng năm khi mực nước hồ hạ thấp theo mùa, thực vật sẽ phát triển ven bờ, sau đó lại bị dìm chết khi nước hồ lên cao trở lại. Tất cả những vật liệu hữu cơ này bị lắng xuống đáy hồ tích tụ trong điều kiện thiếu ô xy. Thêm vào đó, trong hồ, phiêu sinh thực vật cũng phát triển nhiều hơn so với sông trước đây. Xác bã phiêu sinh thực vật chết cũng sẽ lắng xuống đáy hồ.
Trong điều kiện dòng sông chảy tự nhiên thì nước được pha trộn, nên ô xy được cung cấp tận đáy sông, nhờ đó vật liệu hữu cơ sẽ phân hủy trong điều kiện có ô xy, phần lớn carbon phân hủy sẽ tạo ra khí CO2. Còn ở lớp nước bên dưới trong hồ thủy điện do thiếu ô xy, sự phân hủy dưới tác động của vi sinh vật yếm khí làm cho phần lớn carbon của vật liệu hữu cơ bị chuyển thành khí CH4. Điều này có nghĩa là cùng một lượng carbon chứa trong vật liệu hữu cơ, nếu bị phân hủy trong điều kiện của hồ thủy điện, sẽ gây nóng lên toàn cầu gấp nhiều lần so với nếu không bị dìm dưới đáy hồ và phân hủy trong môi trường trên cạn.
Đập thủy điện Đăk Mek 3 bị "xe ben đụng vỡ" gây nên lo ngại lớn về chất lượng xây dựng các đập thủy điện - Ảnh: Trần Hiếu
Đập chỉ rẻ đối với nhà đầu tư
Nhưng đây lại là nguồn năng lượng rẻ tiền và sẵn có?
Ngày nay khoa học đã cho thấy thủy điện gây ra những thiệt hại đáng kể về môi trường và xã hội. Đập làm thay đổi môi trường nước, môi trường đất, ảnh hưởng thủy sản, nông nghiệp và vô số các tác động tiêu cực do sự thay đổi dòng chảy tự nhiên. Tuy nhiên, rất khó để có thể tính ra bằng tiền toàn bộ chi phí do tác động của thủy điện gây ra vì những chi phí này không chỉ ở tại chỗ mà còn diễn ra trong phạm vi địa lý rất lớn, có khi là xuyên biên giới, trong khoảng thời gian rất dài. Số người gánh chịu chi phí cũng rất đông và đa dạng, trong đó người nghèo ở nông thôn bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Thủy điện chỉ rẻ đối với nhà đầu tư bởi nhà đầu tư chỉ phải chịu các loại chi phí chính là xây dựng, vận hành, tái định cư và thường không phải trả những chi phí khác mà xã hội và môi trường phải gánh chịu. Ngoài ra, nếu đập được thiết kế và vận hành an toàn thì chi phí tháo dỡ đập sau khi hết hạn sử dụng (thường khoảng 50 năm) chưa được tính vào chi phí của nhà đầu tư. Đó là chưa kể chi phí trong trường hợp phải tháo dỡ đập do thiết kế hay xây dựng kém chất lượng, không an toàn...
Theo TS Lê Anh Tuấn, Trường ĐH Cần Thơ, nhiều nước trên thế giới đã nhận ra tác hại của các đập thủy điện đối với môi trường.
Mỹ đã phá bỏ 4 đập thủy điện trên sông Klamath chảy dọc giữa 2 bang California và Oregon. Brazil và Myanmar cũng đã đình chỉ việc xây dựng các đập thủy điện gây hủy hoại rừng, môi trường... Các tổ chức WB, IMF, ADB cũng gần như không còn tài trợ những dự án thủy điện lớn trong khi Việt Nam lại quá hăm hở với thủy điện.
Theo TNO
Thủy điện Việt Nam đi "ngược chiều" thế giới - Kỳ 2: Hai không Nhiều dự án thủy điện không có đủ các quy chuẩn cần thiết trong khi cơ quan quản lý không kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Thủy điện Sông Tranh 2 không có cửa xả đáy - Ảnh: Hoàng Sơn Không cửa xả đáy Theo kết quả thanh tra các hồ, đập thủy điện vừa và nhỏ mới đây của Thanh tra Bộ...